Nguồn Gốc Chó Alaska / Top 7 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Dhrhm.edu.vn

Nguồn Gốc, Đặc Tính Của Giống Chó Alaska

Giống chó Alaska là giống chó có vẻ ngoài to lớn, nhanh nhẹn và khá thông minh. Trào lưu chơi chó Alaska tại Việt Nam được khá nhiều người ưa chuộng. Trong bài viết này chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu những thông tin chi tiết về nguồn gốc, đặc điểm, tính cách, phân loại và cách nhận biết 1 chú chó Alaska thuần chủng.

Chó Alaska là một nhánh của giống chó sói tuyết Bắc Cực, được biết đến đầu tiên bởi bộ tộc Mahlemut. Sau này, người Eskimo – một trong những bộ lạc du mục của vùng Alaska đã phát hiện được sức bền phi thường của những chú chó Alaska và lai tạo chúng với giống chó có thân hình to lớn khác và hình thành giống chó Alaska to hơn, khỏe hơn, bền bỉ hơn và chịu được tốt hơn thời tiết khắc nghiệt của vùng Bắc Cực phục vụ công việc kéo xe tuyết.

Từ thời điểm ấy, giống chó Alaska trở lên phổ biến. Nó không chỉ được nuôi phục vụ công việc kéo xe tuyết tại vùng Bắc Cực băng giá, mà còn nhanh chóng trở thành giống chó cảnh ở nhiều nơi trên toàn thế giới.

Alaska thuần chủng có chiều cao trung bình từ khoảng 60cm, nặng 30 – 50kg (trong đó dòng Alaska khổng lồ có thể cao tới gần 1m, nặng 80kg). Thông thường, những cá thể Alaska thuần chủng có chân rất lớn, săn chắc để thích nghi với công việc kéo xe tuyết từ xa xưa. Chúng có một tỷ lệ cân nặng chiều cao, khung xương và cơ bắp vô cùng cân đối mang đến cảm giác vững chắc, đồ sộ, tinh ranh thường thấy của chó sói Bắc Cực.

Bộ lông của giống chó Alaska đa dạng về màu sắc, nhưng điển hình là màu: xám trắng, đen trắng, nâu đỏ và hồng phấn. Ngoài ra, còn có một số cá thể với màu hiếm: trắng bạc, trắng tuyết hoặc Agouti (màu lông xen kẽ rất đều giữa đen, xám hoặc nâu đỏ – trắng). Tuy nhiên, có 2 vùng trên cơ thể mà màu lông không thể thay đổi đó là mõm và 4 chân phải là màu trắng.

Đặc điểm lông của chó Alaska là dày, thô nhưng mềm và bóng, được phân ra thành 2 lớp. Lớp ngoài dài và thô, không thấm nước. Lớp trong dày, mềm và mượt hơn, có cấu trúc như lông cừu giúp giữ nhiệt độ cho cơ thể.

Mặt chó Alaska bành to và bị “gãy” tại điểm trán giao với mũi, lông rậm rạp và xù xì. Tai Alaska to vừa phải, cân đối so với mặt và vành tai có nhiều lông tơ.

Mắt chó Alaska có vị trí xiên chéo trên hộp sọ, hình quả hạnh, kích cỡ trung bình. Giống chó thuần chủng chỉ được công nhận là có mắt màu nâu hoặc nâu đen. Tất cả chó Alaska màu mắt khác, phổ biến là màu xanh da trời đều bị cho là chó lai tạp.

Đuôi Alaska hình bông lau xõa đều cong ngược trên lưng, có lông dày và xù xì tăng thêm độ ấm khi ở môi trường Bắc Cực khắc nghiệt.

Trong khi di chuyển, giống chó Alaska luôn đứng thẳng, ngẩng cao đầu, 2 mắt mở to và luôn luôn quan sát do chúng rất tò mò, nhanh nhẹn hoạt bát, luôn luôn quan sát tìm hiểu mọi sự vật hiện tượng xung quanh. Đây cũng chính là những đặc điểm về ngoại hình giúp phân biệt chó Alaska và các giống chó khác cùng loại như Husky hay Samoyed.

Tuy mang nhiều đặc điểm hoang dã của tổ tiên là chó sói tuyết như mạnh mẽ, bền bỉ, tinh nhanh. Nhưng trải qua hàng nghìn năm được thuần hóa của con người, Alaska dần mất đi bản năng hung dữ mà trở nên hiền lành, kiên nhẫn.

Alaska là giống chó khá thông minh nên có khả năng học tập rất nhanh và rất biết vâng lời. Chúng thích trẻ nhỏ và luôn hòa thuận với những vật nuôi khác, không bao giờ tấn công các vật nuôi nhỏ và rất thích được lao động.

Tuy nhiên, với bản tính thích vận động và ưu làm những công việc nặng nhọc nên giống chó này đòi hỏi được tập luyện hàng ngày. Chúng ghét bị kìm hãm, nuôi nhốt như các giống chó khác. Nếu trong một thời gian dài nuôi nhốt, không được thoải mái vận động, chó Alaska sẽ rất dễ bị stress, hay phá phách, thậm chí hung dữ hơn.

Với bản tính bầy đàn luôn sẵn có trong tiềm thức, nếu được nuôi dưỡng từ bé, chúng sẽ coi chủ nhân của mình giống như cá thể “đầu đàn” và tuyệt đối tuân lệnh, phục vụ và bảo vệ hết mình tất cả những thành viên trong gia đình, lãnh thổ khỏi những gì chúng cho là nguy hiểm, kể cả việc hy sinh cả bản thân mình. Chính vì thế, trên thế giới đã có rất nhiều những câu chuyện cảm động về lòng trung thành, sự hy sinh của những chú chó Alaska trong việc bảo vệ chủ nhân của mình.

Dựa vào đặc điểm về hình thể, chó Alaska được chia làm 2 loại:

Những chú chó Alaska Standard có thân hình tương đối nhỏ gọn. Một chú chó trưởng thành chỉ đạt cân nặng khoảng 35 – 45kg đối với con đực và 30 – 40kg đối với con cái và đây cũng là dòng chó Alaska được nuôi phổ biến nhất tại nước ta.

(*) Alaska size Giant khổng lồ

Theo AKC (hiệp hội chó Hoa Kỳ), một chú chó Alaska khổng lồ có chiều cao lớn hơn 73cm, và cân nặng trên 45kg – xứng danh là dòng chó lớn nhất trong tất cả giống chó Alaska. Có một số cá thể đặc biệt có thể cao tới 1m và nặng tới 80kg.

Trong đàn chó Alaska, cá thể chó Giant Alaska thường nắm vị trí đầu đàn. Chúng có sức khỏe rất tốt và khả năng kéo khối lượng hàng hóa gấp nhiều lần bình thường. Alaska Giant cũng là một trong những cá thể Alaska hiếm gặp ở Việt Nam do nguồn cung khan hiếm và giá cả khá đắt.

(*) Dựa vào mức độ thuần chủng, chó Alaska được chia làm 2 loại:

– Chó Alaska thuần chủng.

– Chó Alaska lai: Con lai giữa chó Alaska và một giống chó khác (ví dụ: Alaska lai Husky, Alaska lai Samoyed,…). Alaska thuần chủng đẹp hơn và giá trị hơn những chú chó Alaska đã được lai giống.

Nguồn Gốc, Đặc Điểm, Tính Cách Của Chó Alaska – Azpet Shop

Chó Alaska (còn gọi là Chó Alaskan Malamute) là giống chó có vẻ ngoài dũng mãnh, nhanh nhẹn và khá thông minh. Tại Việt Nam, trào lưu chơi chó Alaska được khá nhiều người ưa chuộng. Trong bài viết này chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu những thông tin chi tiết về nguồn gốc, đặc điểm, tính cách, phân loại và cách nhận biết 1 chú chó Alaska thuần chủng.

1. Nguồn gốc của chó Alaska

Chó Alaska là một nhánh của giống chó sói tuyết Bắc Cực, được biết đến đầu tiên bởi bộ tộc Mahlemut. Sau này, người Eskimo – một trong những bộ lạc du mục của vùng Alaska đã phát hiện được sức bền phi thường của những chú chó Alaska và lai tạo chúng với giống chó có thân hình to lớn khác và hình thành giống chó Alaska to hơn, khỏe hơn, bền bỉ hơn và chịu được tốt hơn thời tiết khắc nghiệt của vùng Bắc Cực phục vụ công việc kéo xe tuyết.

Từ thời điểm ấy, giống chó Alaska trở lên phổ biến. Nó không chỉ được nuôi phục vụ công việc kéo xe tuyết tại vùng Bắc Cực băng giá, mà còn nhanh chóng trở thành giống chó cảnh ở nhiều nơi trên toàn thế giới.

2. Đặc điểm, tính cách của chó Alaska

2.1. Đặc điểm về ngoại hình.

(*) Thân hình

Alaska thuần chủng có chiều cao trung bình từ khoảng 60cm, nặng 30 – 50kg (trong đó dòng Alaska khổng lồ có thể cao tới gần 1m, nặng 80kg). Thông thường, những cá thể Alaska thuần chủng có chân rất lớn, săn chắc để thích nghi với công việc kéo xe tuyết từ xa xưa. Chúng có một tỷ lệ cân nặng chiều cao, khung xương và cơ bắp vô cùng cân đối mang đến cảm giác vững chắc, đồ sộ, tinh ranh thường thấy của chó sói Bắc Cực.

(*) Bộ lông

Bộ lông của giống chó Alaska đa dạng về màu sắc, nhưng điển hình là màu: xám trắng, đen trắng, nâu đỏ và hồng phấn. Ngoài ra, còn có một số cá thể với màu hiếm: trắng bạc, trắng tuyết hoặc Agouti (màu lông xen kẽ rất đều giữa đen, xám hoặc nâu đỏ – trắng). Tuy nhiên, có 2 vùng trên cơ thể mà màu lông không thể thay đổi đó là mõm và 4 chân phải là màu trắng.

Đặc điểm lông của chó Alaska là dày, thô nhưng mềm và bóng, được phân ra thành 2 lớp. Lớp ngoài dài và thô, không thấm nước. Lớp trong dày, mềm và mượt hơn, có cấu trúc như lông cừu giúp giữ nhiệt độ cho cơ thể.

(*) Đầu và mặt

Mặt chó Alaska bành to và bị “gãy” tại điểm trán giao với mũi, lông rậm rạp và xù xì. Tai Alaska to vừa phải, cân đối so với mặt và vành tai có nhiều lông tơ.

(*) Mắt

Mắt chó Alaska có vị trí xiên chéo trên hộp sọ, hình quả hạnh, kích cỡ trung bình. Giống chó thuần chủng chỉ được công nhận là có mắt màu nâu hoặc nâu đen. Tất cả chó Alaska màu mắt khác, phổ biến là màu xanh da trời đều bị cho là chó lai tạp.

(*) Đuôi

Đuôi Alaska hình bông lau xõa đều cong ngược trên lưng, có lông dày và xù xì tăng thêm độ ấm khi ở môi trường Bắc Cực khắc nghiệt.

(*) Kiểu dáng di chuyển

Trong khi di chuyển, giống chó Alaska luôn đứng thẳng, ngẩng cao đầu, 2 mắt mở to và luôn luôn quan sát do chúng rất tò mò, nhanh nhẹn hoạt bát, luôn luôn quan sát tìm hiểu mọi sự vật hiện tượng xung quanh. Đây cũng chính là những đặc điểm về ngoại hình giúp phân biệt chó Alaska và các giống chó khác cùng loại như Husky hay Samoyed.

2.2. Đặc điểm về tính cách.

Tuy mang nhiều đặc điểm hoang dã của tổ tiên là chó sói tuyết như mạnh mẽ, bền bỉ, tinh nhanh. Nhưng trải qua hàng nghìn năm được thuần hóa của con người, Alaska dần mất đi bản năng hung dữ mà trở nên hiền lành, kiên nhẫn.

(*) Thông minh, nhanh nhẹn.

Alaska là giống chó khá thông minh nên có khả năng học tập rất nhanh và rất biết vâng lời. Chúng thích trẻ nhỏ và luôn hòa thuận với những vật nuôi khác, không bao giờ tấn công các vật nuôi nhỏ và rất thích được lao động.

Tuy nhiên, với bản tính thích vận động và ưu làm những công việc nặng nhọc nên giống chó này đòi hỏi được tập luyện hàng ngày. Chúng ghét bị kìm hãm, nuôi nhốt như các giống chó khác. Nếu trong một thời gian dài nuôi nhốt, không được thoải mái vận động, chó Alaska sẽ rất dễ bị stress, hay phá phách, thậm chí hung dữ hơn.

(*) Trung thành tuyệt đối.

Với bản tính bầy đàn luôn sẵn có trong tiềm thức, nếu được nuôi dưỡng từ bé, chúng sẽ coi chủ nhân của mình giống như cá thể “đầu đàn” và tuyệt đối tuân lệnh, phục vụ và bảo vệ hết mình tất cả những thành viên trong gia đình, lãnh thổ khỏi những gì chúng cho là nguy hiểm, kể cả việc hy sinh cả bản thân mình. Chính vì thế, trên thế giới đã có rất nhiều những câu chuyện cảm động về lòng trung thành, sự hy sinh của những chú chó Alaska trong việc bảo vệ chủ nhân của mình.

3. Phân loại chó Alaska

Dựa vào đặc điểm về hình thể, chó Alaska được chia làm 2 loại:

(*) Chó Alaska Standard (tiêu chuẩn)

Những chú chó Alaska Standard có thân hình tương đối nhỏ gọn. Một chú chó trưởng thành chỉ đạt cân nặng khoảng 35 – 45kg đối với con đực và 30 – 40kg đối với con cái và đây cũng là dòng chó Alaska được nuôi phổ biến nhất tại nước ta.

(*) Chó Alaska Giant khổng lồ

Theo AKC (hiệp hội chó Hoa Kỳ), một chú chó Alaska khổng lồ có chiều cao lớn hơn 73cm, và cân nặng trên 45kg – xứng danh là dòng chó lớn nhất trong tất cả giống chó Alaska. Có một số cá thể đặc biệt có thể cao tới 1m và nặng tới 80kg.

Trong đàn chó Alaska, cá thể chó Giant Alaska thường nắm vị trí đầu đàn. Chúng có sức khỏe rất tốt và khả năng kéo khối lượng hàng hóa gấp nhiều lần bình thường. Alaska Giant cũng là một trong những cá thể Alaska hiếm gặp ở Việt Nam do nguồn cung khan hiếm và giá cả khá đắt.

(*) Dựa vào mức độ thuần chủng, chó Alaska được chia làm 2 loại:

– Chó Alaska thuần chủng.

– Chó Alaska lai: Con lai giữa chó Alaska và một giống chó khác (ví dụ: Alaska lai Husky, Alaska lai Samoyed,…). Alaska thuần chủng đẹp hơn và giá trị hơn những chú chó Alaska đã được lai giống.

4. Cách nhận biết chó Alaska thuần chủng

– Mõm và 4 chân luôn có màu trắng.

– Mắt của Alaska thuần chủng có màu nâu hoặc nâu đen.

– Phần giao nhau giữa trán và mõm hơi gãy nhẹ.

– Tai chó Alaska có kích cỡ vừa phải, nhưng luôn nhỏ so với đầu. Đôi tai mang hình dáng tam giác cân nằm cách xa nhau, ở chỏm vành tai hơi tròn, thường hướng nhẹ về phía trước mặt.

– Mũi và mõm chó Alaska to khỏe nhìn cân đối với đầu, mõm không dài, thuôn nhỏ dần về phía mũi nhưng không nhọn. Viền mép ở môi đều phủ kín, che bộ hàm rộng và răng lớn.

– Đuôi của chó Alaska rất dày và rậm lông. Luôn được cuộn tròn trên lưng. Trái ngược với chó Husky thường cụp đuôi lại, chỉ khi đi thì đuôi mới dựng đứng.

Phóng sự giới thiệu về quy mô AZPET Shop trên VTV6

   

Nguồn Gốc Của Giống Chó Béc Bỉ

Malinois là một giống chó thuộc dòng chó chăn gia xúc của Bỉ, một trong 4 giống chó Becgie nổi tiếng của Bỉ. Nhiệm vụ của chúng là chủ yếu là chăn các đàn gia súc kể cả loài lớn như cừu, bò sữa,… Ngoài khả năng đó thì chúng còn vượt trội hơn so với 3 giống chó còn lại về sự nhanh nhẹn, thông minh, vâng lời dễ bảo, theo dõi, Schutzhund và canh gác việc bảo vệ, tìm kiếm cứu hộ.

Câu lạc bộ chó chăn gia súc Bỉ được thành lập vào ngày ngày 29 tháng 9 năm 1891 (Club du Chien de Berger Beige). Cũng vào khoảng thời điểm đó, bác sĩ thú y Adolphe Reul đã tập hợp một nhóm người từ các địa phương khác nhau tại Bỉ mở cuộc hội nghị nhằm xác việc có nên tồn tại một giống chó chăn gia súc riêng biệt cho cả quốc gia hay không? Các chuyên gia xem xét dựa trên rất nhiều chú chó đại diện, khoảng 117 con và đã xác định được hình thể nhất quán của giống chó chăn gia súc Bỉ này. Trong đó có 4 con đã được lựa chọn để giải phẫu hình thể giống hệt nhau mặc dù chúng có bộ lông khác nhau từ màu sắc, độ dài, chất lông.

Cũng tại năm 1891, chính tại quê hương của Malinois là Malines, một nhóm các nhà nhân giống học đã cùng nhau phát triển giống Béc giê Bỉ này. Đến năm 1901, con chó chăn gia súc đầu tiên của Bỉ tên Vos des Polders, được đăng ký với câu lạc bộ chó giống quốc gia của Bỉ – Royale Societe Saint-Hubert (viết tắt là SRSH). Vos sinh ra con Dewet, con chó này được coi là một trong những nền tảng của Malinois giai đoạn đầu. Các con chó chăn gia súc Bỉ đều có nền tảng gốc gác từ con Vos, là một con chó màu vàng, có bộ lông thô cứng, đến từ một dòng chó chăn gia súc đã được sử dụng để bảo vệ các cánh đồng trồng lanh ở Bỉ. Vos cũng được cho phối giống với Lise de Laeken, và cuối cùng cho lai với con chó cái con của nó, từ đó tạo ra một dòng chó có màu vàng nâu- xám và thuần nhất cùng một loại. Chúng đều là những con chó cơ sở để hình thành giống chó chăn gia súc Bỉ sau này.

Cuối thập niên 1890, một chú chó nổi tiếng là Tomy với ngoại hình nổi bật, lông vàng pha xám than, mặt nạ đen, từ hình thể, khung người, sức khỏe thế lực đều nổi trội, dành được nhiều giải thưởng từ các cuộc thi dành cho chó thời bấy giờ. Tomy được sinh ra từ con Salmo cũng là chó chăn gia súc Bỉ với bộ lông màu nâu vện, ngắn thuộc những con chó sáng lập giống chó Malinois năm 1882. Con Tomy này được phối giống với con Cora I có lông ngắn màu vện, có mặt nạ. Và chúng sinh ra con Tjop, có màu lông vàng ngắn, không có mặt nạ.

Như vậy, Dewet và Tjop là 2 chú chó được coi là trụ cột của dòng chó Malinois, mặc dù chúng có ngoại hình khác nhau. Dewet, một con chó mạnh mẽ và thô cứng, có màu lông vàng sáng với các mảng đen trên người. Còn Tjop được coi là nguyên mẫu của chó Béc giê Bỉ ngày nay.

Trong lịch sử người ta thường nhân giống chó Béc giê Bỉ với 3 giống chó còn lại để phát triển giống nòi, cải thiện ngoại hình và khả năng của chúng. Tuy nhiên đến năm 1973, SRSH lại nghiêm cấm việc lai tạo các dòng chó khác nhau. Malinois có một vẻ đẹp nhất định và là giống chó nhanh nhẹn, linh hoạt, chăm chỉ nhất so với các dòng còn lại.

Trải qua nhiều quá trình, nhiều năm phát triển và có sự khác biệt về ngoại hình nhưng 4 giống chó này vẫn nhận rất nhiều những quan điểm trái chiều về vấn đề giống loài. Trên tất cả các nước đều công nhận chúng đều chia sẻ một tiêu chuẩn chung, duy chỉ có AKC (câu lạc bộ chó giống Mỹ) coi chúng là những giống khác biệt vào năm 1959 và không công nhận một trong 4 loài là Leakenois. Cũng là một cơ quan của Mỹ những UKC (câu lạc bộ United Kennel) lại cho rằng 4 giống này đều có chung một nguồn gốc. Malinois là giống chó đầu tiên trong 4 giống được thiết lập nên loại, chúng có ngoại hình giống với Becgie Đức tuy nhiên chúng có một số điểm khác biệt lớn như đầu Malinois nhỏ hơn, cao hơn, khung xương gọn gàng, lông mịn hơn Béc Đức.

Các nhà nhân giống học là làm việc cùng nhau để củng cố các dòng chó và đưa chúng tiếp cận được với mọi người trên khắp Châu Âu. Chó Bỉ là một trong số đó và chúng đã rất thành công với các cuộc thử nghiệm và được mọi người rất thích thú. Nhiều người nhận thấy sự thông minh vượt trội của chúng nên đã huấn luyện chúng thành những con chó nghiệp vụ, chó cảnh sát và chó tìm kiếm cứu hộ. Trong chiến tranh thế giới I chó Béc Bỉ được sử dụng rất phổ biến, nhiệm vụ của chúng là đưa tin, có cứu hộ thương binh và đặc biệt nhất là chó đánh bom cảm tử. Và sau khi chiến tranh người ta nhận thấy rằng chúng gần như tuyệt chủng, sự tàn phá khủng khiếp của chiến tranh khiến chúng biến mất rất nhiều. Phải mất rất nhiều nỗ lực mới có thể thiết lập lại hệ thống cơ sở chăn nuôi chó, trong đó có Malinois, trong quá trình này các nhà nhân giống đã phải bỏ qua màu sắc của chúng vì các tiêu chất lượng đã bị chiến tranh thiêu trụi.

Nhân vật đặc biệt trong quá trình phục hồi giống chó này là Giáo sư Reul. Ông thành lập một trại chó hàng đầu vào năm 1930 và đã cố vấn cho rất nhiều người cũng như các trại chó khác yêu giống chó Malinois này. Và Malinois đã nhanh chóng phục hồi và phát triển mãnh mẽ một thời gian sau đó. Những chú chó đời sau có ngoại hình rất đẹp và làm việc cũng rất tốt.

Chưa dừng lại ở đó, những chú chó Malinois đã bị tiêu diệt nặng nề trong Thế chiến thứ II. Những chú chó này được sử dụng trong quân đội Bỉ với nhiều mục đích khác nhau, chúng rất dũng cảm và làm việc cực kì hiệu quả. Chính vì vậy quân đội Đức đã được ra lệnh bắn chết chúng khi nhìn thấy. Một lần nữa chúng lại trên bờ vực của sự tuyệt chủng, nhưng may thay một số nhà chăn nuôi đã cất giấu một số con chó của họ và nhờ có vậy dòng chó này mới được cứu giống.

Những thập kỉ đầu của thế kỉ 20, Malinois là một trong những giống chó được xuất sang các nước khác như Hà Lan, Pháp, Thụy Sĩ, Canada, Hoa Kỳ, Argentina và Brazil.

Lời kết:

Như vậy, để được có những chú chó Béc giê Bỉ – Malinois như ngày nay thì chúng đã phải trải qua rất nhiều biến cố trong lịch sử. Đi qua rất nhiều quá trình đạo tạo, nhân giống và phát triển thì chúng mới có một hình thể hoàn thiện và năng lực làm việc cùng sự thông minh rất tuyệt vời, chúng xứng đáng được mọi người yêu mến.

Tại sao nên chọn Tùng Lộc Pet để sở hữu những em cún con xinh xắn này?

Chó bố mẹ có nguồn gốc rõ ràng, gia phả đẹp.

100% chó con xuất chuồng đều được gắn Microchip.

Hồ sơ bán hàng đầy đủ: Hợp đồng mua bán, sổ tiêm, gia phả, hướng dẫn chăm sóc…

Chính sách bảo hành 99 ngày bằng văn bản, quy trình bảo hành rõ ràng minh bạch.

Chính sách vận chuyển toàn quốc cực kỳ tiện lợi, an toàn.

Hỗ trợ trả góp với lãi suất cực kỳ ưu đãi.

Tham khảo bài viết về giá chó Malinois – Becgie Bỉ

Các bạn có nhu cầu sở hữu một bé dịch vụ phối giống chó Malinois – Becgie Bỉ xinh xắn, hoặc tư vấn Malinois – Becgie Bỉ xin vui lòng liên hệ Tùng Lộc Pet theo thông tin bên dưới:

Trụ sở chính Miền Bắc: 151 Hồ Dắc Di – Phường Quang Trung – Quận Đống Đa – TP Hà Nội

Địa chỉ tổ hợp trại chó: Ngõ 143 Thúy Lĩnh – Phường Lĩnh Nam – Quận Hoàng Mai – Hà Nội

Điểm giao dịch miền Nam: Số 15 đường 19 – Phường Bình An – Quận 2 – TP HCM

Để phục vụ chu đáo và tư vấn những thông tin tốt nhất, quý khách vui lòng đặt lịch xem chó trước qua điện thoại theo số 0826880528 (Tại Hà Nội) và 0982880528 (tại TP HCM) hoặc nhắn tin qua Fanpage chính thức của Tùng Lộc Pet. Xin chân thành cảm ơn! Trần Khánh Tùng

Nguồn Gốc Của Giống Chó Berger Đức

Vào năm 1850 ở châu Âu, người ta bắt đầu thực hiện chuẩn hóa các giống chó. Ưu tiên hàng đầu là giữ lại những tính trạng giúp chúng chăn gia súc, bảo vệ bầy cừu và chống lại thú dữ. Việc chuẩn hóa này ban đầu chỉ thực hiện ở Đức.

Những tính trạng được ưa chuộng nhất là trí thông minh, tốc độ, sức mạnh và khứu giác nhạy bén. Từ đây giống chó Berger Đức chính thức được công nhận.

Quá trình lai tạo chó Berger Đức

Mặc dù các nhà lai tạo đã có thể phối ra được loại chó tốt thế nhưng ngoại hình và kĩ năng của của các giống này vẫn không được đồng đều.

Để loại bỏ những khác biệt đó, vào năm 1891 Hiệp hội Phylax tạo ra các chương trình phát triển tiêu chuẩn cho các giống chó bản địa ở Đức.

Một số người khác yêu cầu rằng giống chó phải có vẻ ngoài đồng nhất. Mặc dù Hiệp hội không đạt được mục tiêu của nó, việc tiêu chuẩn hóa chó vẫn được tiếp tục.

Do sự phát triển của các thành phố công nghiệp lớn, số lượng thú hoang ở đây suy giảm mạnh và chó chăn cừu không còn cần thiết. Cùng lúc đó, người ta dần biết đến trí thông minh và sự đa tài của giống Berger.

Max Emil Friedrich von Stephanitz, đại úy kỵ binh, cựu sinh viên của trường Đại học thú y Berlin và là cựu thành viên của Hiệp hội Phylax, duy trì quan điểm là chó phải được phối giống đặc biệt để phục vụ cho công việc.

Tuy nhiên, ông vẫn phải công nhận kỹ năng và sức mạnh của giống Berger. Ông cũng không tìm được giống chó nào có thể làm việc hiệu quả như vậy.

Năm 1899 Stephanitz được dẫn đi xem một con chó tên là Hektor Linksrhein, kết quả phối giống có chọn lọc qua nhiều thế hệ chó.

Con chó đáp ứng hoàn toàn tất cả những yêu cầu của ông: trí thông minh, lòng trung thành đối với chủ nhân và vẻ đẹp của nó.

Stephanitz quyết định mua con chó ngay lập tức và đổi tên nó thành Horand von Grafrath.

Sau đó, ông thành lập tổ chức Verein für Deutsche Schäferhunde (Hiệp hội cho Chó chăn cừu Đức). Horand được coi là chú Berger (chó chăn cừu) Đức đầu tiên và là con chó đầu tiên được đăng ký thông tin tại Hiệp hội. ‘

Horand đã trở thành cơ sở di truyền cho các chương trình nhân giống và được lai tạo với những con chó từ Thuringia, Franconia và Wurttemberg. Nó đã để nhiều con, trong đó có Hektor von Schwaben, được coi là con chó thành công nhất.

Nguồn gốc của tên gọi “chó chăn cừu Đức”

Tên của giống ngựa Deutscher Schäferhund được đề xuất bởi Stephanitz và dịch theo nghĩa đen là “Chó chăn cừu Đức”. Tên được lấy theo mục đích ban đầu của chó là chăn cừu và gia súc.

Vào thời điểm đó, tất cả các đàn gia súc khác đều có cùng tên, do đó tên nó đã được thay đổi thành Altdeutsche Schäferhunde, dịch theo nghĩa đen thành “Chó chăn cừu Đức cũ”.

Lời dịch nghĩa đen của của cái tên này đã trở thành tên chính thức. Tuy nhiên, sau Thế chiến thứ nhất, người ta sợ chữ “Đức” trong tên sẽ làm xấu đi hình ảnh giống chó này.

Do tư tưởng bài trừ Đức, Câu lạc bộ nuôi chó Anh (UK Kennel Club) đổi tên giống chó thành “chó lai sói Alsatian”, được đặt theo tên vùng Alsace của Pháp giáp biên giới với Đức. Tên này đã được nhiều hiệp hội chó quốc tế công nhận..

Về sau, các nhà lai chó bắt đầu phản đối tên “chó lai sói” vì dễ gây hiểu nhầm đây là một giống lai giữa chó và sói. Họ tuyên bố rằng cái tên này sẽ gây tổn hại cho danh tiếng cũng như tính hợp pháp của giống Berger.

Tuy nhiên, thuật ngữ “Alsatian” vẫn được dùng trong một thời gian dài. Mãi đến năm 1977, dưới áp lực của những người yêu thích chó và các câu lạc bộ lai chó ở Anh, cái tên “Chó chăn cừu Đức” mới được khôi phục.