Đặt Câu Với Thành Ngữ Chó Treo Mèo Đậy / Top 17 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Dhrhm.edu.vn

Bài 6: Các Câu Thành Ngữ Trong Tiếng Trung

Giới thiệu Trung Quốc Sơ lược về đất nước Trung Quốc Giới thiệu chung về đất nước Trung Quốc Tên nước: Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (The People’s Republic of China) Thủ đô: Bắc Kinh Ngày quốc khánh: 01-10-1949. Vị trí địa lý: Trung Quốc nằm ở phần nử

第九课 苹果一斤多少钱 生词: 1. 买mǎi ( mãi ) : mua 卖mài ( mại ) : bán 你买伆么? nǐ mǎi shén me ? 我买水果 wǒ mǎi shuǐ guǒ 你买伆么水果? nǐ mǎi shén me shuí guǒ 我买苹果 wǒ mǎi píng guǒ 苹果有两种, 一种是5块一斤, 一种是3块一斤 píng guǒ yǒu l

Tin tức mới

1. Bộ công an 公安部 Gōng’ān bù 2. Bộ trưởng công an 公安部长 Gōng’ān bùzhǎng 3. Ty công an tỉnh 省公安厅 Shěng gōng’ān tīng 4. Giám đốc công an tỉnh 厅长 Tīng zhǎng 5. Phó giám đốc công an tỉnh 副厅长 Fù tīng zhǎng 6. Công an thành phố 市公安局 Shì gōng&#39

Nguồn Gốc Câu Thành Ngữ “Chó Cắn Lã Động Tân” Và Bài Học Từ Lịch Sử

Trong giới võ thuật có một thế võ gọi là “Lã Động Tân đả cẩu” có lẽ là xuất từ câu thành ngữ “Cẩu giảo Lã Động Tân”, nhưng mà tại sao Lã Động Tân lại bị chó cắn?

“Chó cắn Lã Động Tân” – Tranh vẽ dân gian Trung Quốc.

Lã Động Tân vì sao lại bị chó cắn? Câu chuyện trước đó ý nghĩa mới thật sâu xa

“Cẩu giảo Lã Động Tân, bất thức hảo nhân tâm”, tức chó cắn Lã Động Tân, không biết lòng tốt của người, đây không chỉ là một điển cố thú vị, mà còn hàm ẩn ý nghĩa sâu xa.

Trong truyện Bát Tiên Bồng Lai kể rằng, có một người đọc sách tên là Lã Động Tân, vì 2 lần tham gia kỳ thi khoa cử (kỳ thi mối năm tổ chức một lần) đều không đỗ, từ đó về sau, không còn thấy ông đọc sách, mà chỉ dựa vào gia sản tổ tiên để lại, du sơn ngoạn thủy kết bạn bốn phương, sống mỗi ngày tiêu diêu tự tại.

Chuyện xưa kể rằng: Trước khi Lã Động Tân thành tiên, có một người bạn tâm giao đồng hương tên là Cẩu Diễu, cha mẹ của anh ta đều đã qua đời, gia cảnh rất nghèo khó. Lã Động Tân đồng cảm với người bạn này, liền cùng anh ta kết bái làm huynh đệ. Hơn nữa, còn mời anh ta đến ở tại nhà mình, động viên anh ta chịu khó học hành, tương lai mới có ngày mở mày mở mặt.

Một ngày nọ, nhà Lã Động Tân có một vị khách họ Lâm đến chơi, thấy Cẩu Diễu thanh tuấn nho nhã, lại chăm chỉ đọc sách, bèn nói với Lã Động Tân: “Lã tiên sinh, tôi muốn gả ngu muội của tôi cho Cẩu Diễu, ông thấy thế nào?”.

Lã Động Tân nghe vậy, sợ Cẩu Diễu bỏ lỡ tiền đồ, liền vội vàng từ chối, nhưng Cẩu Diễu lại ra chiều đồng ý mối hôn sự này.

Cẩu Diễu nghe xong không khỏi sửng sốt, nhưng vẫn cắn răng đồng ý. Buổi tối ngày Cẩu Diễu thành thân, trong động phòng, tân nương với khăn hồng che mặt, ngồi dựa lưng vào giường. Lúc này, Lã Động Tiên xông thẳng vào phòng, chẳng nói chẳng rằng, cứ ngồi ở bàn dưới ánh đèn, mải mê đọc sách. Lâm tiểu thư đợi đến nửa đêm, đành phải nằm ngủ một mình. Đến sáng tỉnh dậy, thì không thấy tân lang đâu. Cứ liên tiếp 3 đêm đều như vậy.

Trải qua 3 ngày vô cùng ức chế, Cẩu Diễu mới được vào động phòng, thấy nương tử đang buồn bã khóc lóc, liền bước đến nhận lỗi. Lâm tiểu thư vẫn cứ cúi đầu khóc nói: “Lang quân, vì sao 3 đêm qua lại không lên giường đi ngủ, chỉ đọc sách dưới đèn, mãi đến tối mới đến, sáng lại đi sớm?”.

Sau khi nghe tân nương trách móc, Cẩu Diễu trợn mắt há hốc mồm, đến nửa ngày, anh mới tỉnh ngộ, dẫm mạnh hai chân, ngửa mặt cười to: “Thì ra là ca ca sợ ta ham vui, lại quên đọc sách, đã dùng cách này để khích lệ ta. Ca ca thật dụng tâm, có thể nói là quá “nhẫn tâm” rồi!”.

Lâm tiểu thư nghe Cẩu Diễu nói như vậy thì thấy vô cùng khó hiểu, đợi Cẩu Diễu nói rõ xong, hai vợ chồng cảm động nói: “Ơn này của Lã huynh, tương lai chúng ta nhất định phải báo đáp!”.

Vài năm sau, Cẩu Diễu quả nhiên thi đỗ bảng vàng được đề bạt làm đại quan, hai vợ chồng đến nhà Lã Động Tân xúc động từ biệt để lên đường đi nhận chức.

Lã Động Tân. (Ảnh: Internet)

Cẩu Diễu báo ân: “Huynh khiến thê tử ta giữ phòng trống, ta khiến thê tử huynh khóc đoạn trường”.

Nhoáng một cái đã 8 năm trôi qua, mùa hè năm đó, Lã gia không may bị cháy lớn, gia sản trong nháy mắt hóa thành đống tro bụi. Lã Động Tân đành phải dựng một căn nhà tranh, để cho vợ con tạm tránh mưa tránh gió.

Sau đó, hai vợ chồng bàn bạc, quyết định đi tìm Cẩu Diễu nhờ giúp đỡ. Trải qua quãng đường vất vả cực khổ, cuối cùng Lã Động Tân cũng tìm được Cẩu Diễu. Tuy nhiên, Cẩu Diễu khi nghe chuyện nhà Lã Động Tân gặp nạn thì tỏ vẻ thông cảm, nhưng lại không đề cập đến chuyện giúp đỡ, một chút tiền cũng không đưa cho Lã Động Tân.

Hơn một tháng trôi qua, Lã Động Tân nghĩ rằng Cẩu Diễu hẳn là đã vong ân bội nghĩa, nên một mạch trở về nhà.

Lã Động Tân vừa về đến nhà thì bất ngờ thấy một ngôi nhà mới. Không tin vào mắt mình, ông tiến vào bên trong nhà, thấy hai bên cửa lớn dán giấy trắng, giống như là trong nhà có người chết. Quá kinh ngạc, ông vội vàng bước vào, nhìn thấy giữa nhà có một cỗ quan tài, vợ con mình mặc áo tang, đang gào khóc thảm thiết.

Nguyên là, sau khi lã Động Tân rời đi không lâu, thì có người đến dựng giúp cái nhà, xây hẳn một ngôi nhà mới. Giữa trưa hôm trước, lại có nhóm người đến mang theo một cỗ quan tài, bọn họ nói: Lã Đông Tân khi đang ở nhà Cẩu Diễu thì bị bệnh chết.

Lã Động Tân nghe xong, biết là Cẩu Diễn bày trò đùa mình. Ông lại gần quan tài, cầm cái búa lớn bổ quan tài làm đôi, chỉ thấy bên trong tất cả đều là kim ngân châu báu, bên trên còn có một phong thư, viết: “Cẩu Diễu không phải là phụ lòng huynh, xin tặng huynh số kim ngân này và một căn nhà. Huynh khiến thê tử ta giữ phòng trống, ta khiến thê tử huynh khóc đoạn trường”.

Từ đó trở đi, hai nhà Lã Động Tân và Cẩu Diễu càng thêm thân thiết. Từ câu chuyện này, người ta mới có câu rằng: “Cẩu Diễu Lã Động Tân, bất thức hảo nhân tâm. Bởi vì “Cẩu Diễu” (苟杳) và “Cẩu giảo” (狗咬) đồng âm, truyền tới truyền lui mới trở thành “Cẩu giảo Lã Động Tân, bất thức hảo nhân tâm” (Chó cắn Lã Động Tân, không biết lòng tốt của người), là một câu thành ngữ trong nhân gian.

Lã Động Tân là một trong 8 vị Bát Tiên. (Ảnh: Internet)

Câu thành ngữ có ý nghĩa sâu xa

Về sau câu thành ngữ này thường được người ta áp dụng cho nhiều tình huống mà những người tốt, tài đức bị thế gian rẻ rúng, ngược đãi, ám hại…

Chẳng hạn, Đức Khổng Tử luôn bị vua chúa bạc đãi, không tin dùng chính trị vương đạo của ngài. Có lúc ngài và nhóm môn đệ còn bị kẻ dữ vây hãm ở nước Trần, nước Thái, phải chịu nhịn đói nhiều ngày… Trong Sử Ký của Tư Mã Thiên (145 – 86 trước Công Nguyên), ở chương Khổng Tử Thế Gia có chép lời người nước Trịnh bảo rằng Đức Khổng trông giống như “con chó nhà có tang / tang gia chi khuyển”. Khi nghe kể lại những chuyện không vui như thế, nếu thông cảm và thương Đức Khổng Tử, người Trung Quốc có thể than: “Ôi! Cẩu giảo Lã Động Tân!”.

Đức Khổng Tử không phải là trường hợp duy nhất bị người đời bạc đãi trên đường truyền đạo của ngài. Đức Phật trong lúc đang hoằng Pháp cũng từng bị kẻ xấu cho voi dữ tấn công, lén lăn đá từ trên núi xuống, bị bỏ thuốc độc trong cơm để mưu sát, bị đàn bà độn bụng giả làm kẻ mang bầu rồi đi thẳng vào chỗ Phật đang giảng đạo mà lu loa vu khống.

Còn Đức Chúa Giêsu? Ngài bị quân dữ đánh đòn, bị đội vòng gai, bị khạc nhổ, bị đánh vào đầu, bị giễu cợt, bị đem đóng đinh trên thập giá .

Ngày xưa, Đức Khổng, Đức Phật, Đức Chúa nào có “tội tình” gì! Các Ngài chỉ đem hết tình thương và trí tuệ siêu việt ra giáo hóa, cứu độ chúng sinh mà thôi. Thế nhưng các Ngài đều bị bức hại, không có ngoại lệ. Các Ngài đều ở vào nghịch cảnh “Cẩu giảo Lã Động Tân, bất thức hảo nhân tâm”.

Trở lại với ý nghĩa thành ngữ “Chó cắn Lã Động Tân / Cẩu giảo Lã Động Tân” của người Hoa, ngày nay thành ngữ này được nhắc tới khá nhiều. Hơn nữa, còn được dịch sang tiếng Anh là: A dog biting Lu Dongbin, not being able to recognize a kind-hearted man. The goodness of a person is of no consequence to the ungrateful, dịch ra là: Chó cắn Lã Động Tân, không nhận biết ai là người tâm lành hạnh tốt; đức thiện hảo của một người lại chẳng quan trọng gì đối với phường bạc bẽo vong ân.

Tóm lại, dường như đã không ngoại lệ cho những ai muốn đem tâm huyết ra tận tụy phụng sự thế gian; nhưng họ vẫn luôn từ bi nhẫn nại đón nhận những đắng cay, chua chát, đớn đau… ấy. Họ dám chấp nhận tất cả chỉ vì một mục đích duy nhất – Cứu độ con người thế gian.

Theo tinhhoa.net

Chó Trong Tục Ngữ, Thành Ngữ Dân Gian

– Chó ăn vã mắm (ý chỉ sự cãi nhau, tranh giành).

– Chó ăn đá, gà ăn sỏi (đất đai khô cằn).

– Chó dữ mất láng giềng.

– Chó dại tha cứt về nhà (hành động ngu dốt).

– Chó cái cắn con (độc ác).

– Chó càn cắn giậu (cùng đường làm bậy).

– Chó cắn áo rách (khốn quẫn).

– Chó cậy nhà, gà cậy chuồng (dựa vào cái khác để tự tin và tăng sức mạnh).

– Chó chê mèo lắm lông (chỉ nhìn thấy cái xấu ở người khác, trong khi mình cũng không ra gì).

– Chó chạy ruộng khoai (lông bông, không mục đích).

– Chó chạy hở đuôi (cây trồng cằn cỗi).

– Chạy như chó dái (chạy nhiều, đi nhiều, không làm việc).

– Chạy như chó phải pháo (rất sợ hãi).

– Chó ông thánh cắn ra chữ (thơm lây, có uy tín nhờ người khác).

– Chó ghẻ có mỡ đằng đuôi (kệch cỡm, khó có thể xảy ra).

– Chó có (mặc) váy lĩnh (không tương xứng, lố bịch, thành trò cười).

– Chó gầy hổ mặt người nuôi.

– Chó già giữ xương (tham lam, giữ cái mình không dùng được nữa).

– Chó giữ nhà, gà gáy sáng (mỗi người một việc).

– Chó khô mèo lạc/Mèo đàng chó điếm (loại không ra gì).

– Chó khôn tứ túc huyền đề (bốn chân có chấm đen).

– Đốm đầu thì nuôi, đốm đuôi thì thịt (kinh nghiệm chọn giống chó).

– Chó lên da, gà lên xương (những bộ phận nếu bị thương thì mau lành).

– Chó chết hết cắn (sự độc ác đã kết thúc).

– Chó chực chuồng chồ (chuồng chồ: chuồng phân, nơi đại tiện; chỉ sự nhục nhã vì miếng ăn).

– Chó chùa bắt nạt (ăn hiếp) chó làng (không biết người biết ta).

– Nhờn chó chó liếm mặt (thân mật quá mức, bị vượt qua phép tắc).

– Chó nhảy bàn độc (gặp thời cơ, liều lĩnh, được lợi).

– Chó chui gầm chạn (nhục nhã cam chịu, thường để chỉ những thân phận ở rể khi xưa).

– Ăn cơm chủ nào sủa cho chủ ấy (tương tự: Ăn cây nào rào cây ấy).

– Chó sủa ma (vu vơ, không xác định chính xác đối tượng).

– Dấm dẳng như chó cắn ma (không quyết liệt, khó chịu).

– Mồm chó, vó ngựa (những chỗ nguy hiểm).

– (Ghét nhau) như chó với mèo.

– Chó ngáp phải ruồi (may mắn ngẫu nhiên, đột xuất).

– Chó treo, mèo đậy (cần cẩn thận).

– Chó đen giữ mực (bản tính khó thay đổi, tương tự: Ngựa quen đường cũ).

– Treo đầu dê, bán thịt chó (nói một đàng, làm một nẻo, lừa bịp).

– Chó vả đi, mèo vả lại (tai họa liên tiếp).

– Chó tháng ba, gà tháng bảy (gầy, không ngon vì đấy là những tháng giáp hạt).

– Đá mèo quèo chó (trút nóng nảy, bực tức lên kẻ khác).

– Hổ xuống đồng bằng gặp chó cũng chào (thất thế, phải lụy cả kẻ yếu gấp ngàn lần mình trước kia).

– Khuyển mã chi tình (tình cảm của chó ngựa: thủy chung, bền chặt).

Chử Anh Đào

Hình Ảnh Con Chó Trong Thành Ngữ, Tục Ngữ Việt Nam

Trong số những con vật gần gũi với con người, không ai không nhắc đến con chó. Vì thế, khác với loài vật khác, hình ảnh chú chó xuất hiện khá nhiều trong thành ngữ, tục ngữ Việt Nam. Khi muốn nói ai đó ỷ vào thế có lợi của mình mà hung hăng bắt nạt người, chẳng cần diễn giải, ta nói ngay: “Chó cậy gần nhà”; rồi khi nhắc đến việc có của phải biết cách giữ gìn, người ta chỉ cần nói: “Chó treo mèo đậy”, thế là cũng hiểu. Chú khuyển quả là con vật được người đời ưu ái!

Trong kho tàng tục ngữ, thành ngữ Việt Nam, có ít nhất 70 câu xuất hiện hình ảnh con chó. Loài vật thân thiết, gắn bó với con người có lúc được đề cao, được ví cùng với con người: “Chó dại có mùa, người dại quanh năm” (chỉ những người đã dại khờ thì lại dại quanh năm suốt tháng, chứ chó thì chỉ dại có mùa), nhưng nhiều khi lại bị coi chẳng ra gì. Trong phần lớn các câu tục ngữ, thành ngữ, dân gian đã lấy hình ảnh của chó để chỉ những người xấu, những cử chỉ không đẹp. Chẳng hạn khi nói đến hình ảnh người mẹ ác nghiệt với con của mình, thành ngữ có câu: “Chó cái cắn con”, hoặc khi nói đến kẻ hung hăng, gây gổ bừa bãi, ta nói: “Chó càn cắn giậu”. Còn ai đó nghèo khó, cùng cực bị kẻ xấu làm hại, bóc lột thêm – kẻ bất lương làm hại người khốn khó, người ta nhớ ngay tới hình ảnh con chó trong: “Chó cắn áo rách”. Đối với những người không khiêm tốn, chẳng có tài, thiếùu hiểu biết nhưng lại lanh chanh dạy bảo, tranh đua với người khôn hơn mình cũng được người đời ví như: “Chó chạy trước hươu”. Hoặc nói đến người không có tài đức mà hợm hĩnh kiêu kỳ; bản chất xấu lại làm ra vẻ tốt đẹp; đài các rởm… người ta dùng: “Chó ghẻ có mỡ đằng đuôi”. Ai đó tham lam, không kham nổi mà vẫn cố giữ, không buông ra cho người khác thì đã có: “Chó già giữ xương”. Người nào vì một sự may mắn ngẫu nhiên, chứ không phải do tài mà có đã được ví như: “Chó ngáp phải ruồi”. Trong cuộc sống, mỗi người một tính cách, một hoàn cảnh. Khi có gia đình, một số người phải nương nhờ nhà vợ. Tuy không hẳn ai trong trường hợp ấy cũng vậy, nhưng nếu có người nào đó không được tự do thoải mái, chịu cảnh phụ thuộc thì cũng bị coi như: “Chó chui gầm chạn”. Cách so sánh quả có phần khập khiễng, thật tội nghiệp cho người trong cuộc!

Trong một số câu thành ngữ, tục ngữ, con chó đã được so sánh với… con chó, nghĩa là trong 1 câu có đến 2 con chó, hoặc 1 con chó nhưng lại so sánh ở 2 trạng thái khác nhau: “Chó ỉa bờ giếng không sao, chó ỉa bờ ao thì bị người ta cắn cổ” – Câu thành ngữ thật thâm thúy, chỉ kẻ có tội thì không sao, còn người mắc khuyết điểm nhỏ lại bị tai vạ. Hoặc câu: “Chó khôn tha cứt ra bãi, chó dại tha cứt về nhà”, chỉ việc làm ngu ngốc, dại dột (thường dùng khi la con cái); rồi: “Chó đen ăn vụng, chó trắng chịu đòn”, chỉ kẻ này gây lầm lỗi để người khác (người gần gũi) phải oan uổng, gánh chịu hậu quả.

Không chỉ lấy chó so sánh với chó, dân gian còn gắn hình ảnh của chó với các con vật thân quen khác như mèo, gà: “Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng” (Ỷ vào thế có lợi của mình mà hung hăng, bắt nạt người khác); “Chó ăn đá, gà ăn sỏi” (Chỉ nơi đất đai cằn cỗi, hoang vu); “Chó 3 năm mới nằm, gà 3 lần vỗ cánh mới gáy” (Khuyên người ta trước khi làm việc gì, nói điều gì phải thận trọng, cân nhắc kỹ lưỡng); “Chó giữ nhà, gà gáy trống canh” (Mỗi người một phận sự, ai có việc nấy, không nên suy bì); “Chó giống cha, gà giống mẹ” (Một nhận xét về quy luật di truyền ở súc vật); “Mèo đàng, chó điếm” (Chỉ người bất lương, lang thang vô dụng); “Chó liền da, gà liền xương” (Một kinh nghiệm chăn nuôi: chó bị thương, gà bị gãy xương thì chóng lành); “Chó tha đi, mèo tha lại” (Chỉ thứ bỏ đi không có giá trị, không ai muốn dùng, muốn nhận); “Chó treo, mèo đậy” (Nghĩa đen: cách cất giữ thức ăn không cho chó mèo ăn vụng; nghĩa bóng: có của thì phải biết giữ gìn, bảo vệ); “Chó quen nhà, gà quen chuồng” (Loài chim, thú dù đi xa mấy vẫn biết tìm về nơi chốn mình ở); “Chó lê trôn, gà gáy gở” (Người mê tín coi đây là điềm xấu, báo hiệu điều dữ sắp xảy ra); “Chó tháng 3, gà tháng 7) (Chỉ một kinh nghiệm ăn uống: tháng 7 và tháng 3 là tháng giáp hạt, gà và chó đều gầy, ăn không ngon).

Mộc mạc, chân tình nhưng đầy ý nhị – những câu tục ngữ, thành ngữ Việt Nam mượn hình ảnh con chó để diễn đạt một điều gì đó trong cuộc sống, điều ấy quả là độc đáo. Chó – loài vật khôn, lanh và tình cảm sẽ vẫn là đề tài được nhắc đến nhiều trong cuộc sống con người.

H.A

Đây Là Câu Thành Ngữ Có Thể Giúp Bạn Phân Biệt Được Người Quân Tử Và Kẻ Tiểu Nhân

Câu thành ngữ “Điểu tận cung tàng” có xuất xứ từ “Sử ký – Việt thế gia”, hàm nghĩa là: khi chim đã chết thì người ta cất cung đi một nơi mà không dùng đến nữa…

Phiên âm Hán văn nguyên câu là: “Giảo thố tử, tẩu cẩu phanh; cao điểu tận, lương cung tàn; địch quốc phá, mưu thần vong”. Ý tứ là: “Thỏ khôn chết, chó săn bị mổ làm thịt; chim bay cao hết, cung tốt vứt bỏ; nước địch phá xong, mưu thần bị giết”.

Chuyện Việt Vương Câu Tiễn vong ân bội nghĩa, bức hại công thần

Chuyện cũ kể rằng vào đời Xuân Thu (722-479 trước CN), nước Việt và nước Ngô giao tranh. Vua Ngô là Phù Sai thất bại, thế cùng lực tận và bị bao vây uy hiếp nên có ý định xin hàng. Phù Sai biết hai bề tôi có uy quyền dưới trướng của Việt Vương Câu Tiễn là Tướng Quốc Phạm Lãi và Đại Phu Văn Chủng có thể giúp được mình việc này nên bèn viết một bức thư, buộc vào mũi tên, bắn vào thành Việt, mong hai người tâu giúp vua Việt cho hàng. Quân nước Việt lượm được đệ trình lên Phạm Lãi và Văn Chủng. Thư ấy nói:

“Tôi nghe giảo thỏ chết thì chó săn tất bị mổ, địch quốc đã diệt thì mưu thần cũng chẳng còn. Sao quan Đại Phu không lưu cho nước Ngô tôi còn lại một chút để làm cái dư địa sau này”.

Nhưng Phạm Lãi và Văn Chủng không cho hàng. Cuối cùng Phù Sai đành phải tự vẫn.

Việt Vương Câu Tiễn chiếm được nước Ngô, bày tiệc rượu trên Văn Đài nước Ngô. Các quan vui say đánh chén nhưng Câu Tiễn lại có vẻ không vui. Phạm Lãi biết ý nhà vua không muốn nói đến công của kẻ hầu hạ, đã diệt được Ngô mà lòng vua lại mang mối nghi kỵ, nên liền xin từ quan trí sỹ.

Nhưng trước khi bỏ nước đi chu du Ngũ Hồ, Phạm Lãi có viết thư gửi cho bạn là Văn Chủng. Thư nói:

“Vua Ngô có nói: ‘Giảo thỏ đã chết thì chó săn tất bị mổ, địch quốc đã diệt thì mưu thần cũng chẳng còn’. Ngài không nhớ hay sao?Vua Việt môi dài mỏ quạ là người nhẫn nhục mà ghét kẻ có công. Cùng ở lúc hoạn nạn thì được, chứ cùng ở lúc an lạc thì không toàn, nay ngài không đi ắt có tai vạ”.

Văn Chủng xem thư xong phàn nàn về Phạm Lãi, cho rằng họ Phạm xử trí như thế là khí khái quá!

Quả thực như y lời Phạm Lãi nói, sau khi thành đại sự Câu Tiễn không chia cho các quan một thước đất nào, lại có ý khinh rẻ công thần. Văn Chủng buồn bã, cáo ốm không vào triều. Câu Tiễn vốn biết tài của Văn Chủng, nghĩ thầm: Ngô đã diệt, còn dùng hắn chi nữa, một khi hắn làm loạn thì sao trị nổi, nên muốn trừ diệt Văn Chủng đi.

Một hôm, Câu Tiễn lấy cớ đến thăm bệnh tình của Văn Chủng và bảo:

– Ta nghe người chí sỹ không lo cái thân mình chết mà lo cái đạo mình không được thực hành. Nhà ngươi có 7 thuật, ta mới thi hành có 3 mà Ngô đã diệt, còn thừa 4 thuật, nhà ngươi định dùng làm gì?

Văn Chủng đáp:

– Tôi cũng không biết dùng làm gì cho được!

Câu Tiễn nói:

– Nhà ngươi đem hãy đem 4 thuật ấy mà mưu hộ cho tiền nhân nước Ngô ở dưới âm phủ, phỏng có nên chăng?

Nói xong, Câu Tiễn lên xe đi về, bỏ lại thanh kiếm đeo tại chỗ ngồi. Văn Chủng cầm lấy xem thấy vỏ kiếm có đề hai chữ: ‘Chúc Lâu’, đây cũng chính là thanh kiếm mà Ngô Phù Sai đã từng đưa cho Ngũ Viên tự tử. Văn Chủng ngửa mặt lên trời than: “Cổ nhân có nói: Ơn to thì không báo nữa. Ta không nghe lời Phạm Lãi đến nỗi bị giết, chẳng cũng ngu lắm ru!”

Văn Chủng nói xong, cầm kiếm tự tử.

Câu nói: “Giảo thố tử, tẩu cẩu phanh; cao điểu tận, lương cung tàn; địch quốc phá, mưu thần vong”, sau này được nhiều người nhắc lại như một bài học lịch sử và được đúc kết thành câu thành ngữ: “Điểu tận cung tàng” hàm chứa nhiều giá trị triết lý nhân sinh sâu sắc.

Lời bàn:

Trong cuộc sống, để chỉ những hiện tượng dùng người mà phụ người, thậm chí đến độ vong ân bội nghĩa lợi dụng người ta xong thì loại bỏ giống như trường hợp Việt Vương Câu Tiễn đối đãi với hai công thần tướng quốc là Văn Chủng và Phạm Lãi thì người ta thường hay nhắc đến câu thành ngữ: “Điểu tận cung tàng” hoặc: “Thố tử cẩu phanh”, ý tứ là:

“Chim hết rồi cung tên xếp xó; Thỏ chết rồi chó bị phanh thây”…

Trong kho tàng thành ngữ, tục ngữ dân gian Việt Nam có những câu thành ngữ như: “Được chim bẻ ná, được cá quên nơm” hay: “Vắt chanh bỏ vỏ”; “Qua cầu rút ván”… cũng ít nhiều mang nét nghĩa đồng.

Mới hay: biết trọng ân nghĩa, không phụ lòng người cũng là một phẩm đức cao quý, là biểu hiện của bản tính Chân – Thiện – Nhẫn trong mỗi con người, đồng thời cũng là ‘thước đo’ để phân định giữa kẻ tiểu nhân và người quân tử.

Qua cách hành xử và đối đãi tệ bạc với các công thần của Việt Vương Câu Tiễn có lẽ không phải bàn nhiều, mỗi người cũng đều có thể nhìn ra nhân vật này là kẻ tiểu nhân hay người quân tử.

Sự lựa chọn ‘ra đi đúng lúc’ của Phạm Lãi và ‘ở lại muộn màng’ của Văn Chủng cũng để lại cho nhân thế nhiều bài học sâu sắc: Làm sao để không nhìn nhầm người, không nhìn nhầm thời, biết nắm giữ và buông bỏ đúng lúc đúng chỗ… để đưa ra những quyết định thật minh xác, đúng đắn đôi khi cũng chính là sự lựa chọn mang tính chất “mở ra” hay “đóng lại” đối với tương lai và sinh mệnh của mỗi con người.

Đường Phong