Chó Tru 3 Tiếng / Top 17 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Dhrhm.edu.vn

Tiếng Chó Tru Trong Đêm

Nhưng những ước vọng phiêu lưu của Erle Stanley Gardner đã không thích hợp với đời sống bận rộn của một luật sự Tòa Án. “Quá nhiều vụ án đến với tôi và tôi thấy mình chôn chân một chỗ” – ông nói – “Vì vậy bên cạnh đó, tôi viết văn”.

Năm đầu tiên ông kiếm được 974 đôla, năm thứ năm là 6.627 đôla. Trước khi ý thức được rằng ông đã tiến tới vị trí phải lựa chọn giữa viết văn và Luật pháp, ông đã bỏ ngành luật pháp. Trong năm 1932 ông kiếm được 20.525 đôla. Ông dùng nhiều bút danh khác như: A.A. Fair, Kyle Corning, Charles M. Green, Carleton Kendrake, Charles J. Kenny, Les Tillray và Robert Parr.

Erle Stanley Gardner đã tạo nên nhân vật truyền kỳ là luật sư Perry Mason, cô thư ký Della Street và viên thám tử tài ba Paul Drake.

Với bút pháp tuyệt vời, nhuần nhuyễn, các tác phẩm của ông được kết cấu chặt chẽ, sự kiện diễn ra dồn dập nhưng không rối rắm, luôn hấp dẫn người đọc và dẫn dắt người đọc đi từ trang đầu đến trang cuối.

Truyện trinh thám của ông là loại truyện không bạo lực và tình cảm ướt át. Những cuốn truyện của ông là sự sắp xếp các sự kiện sao cho hợp lôgíc, và tất cả hành động suy đoán của ông là sự sắp xếp các sự kiện đó theo trình tự sự việc và trình tự thời gian. Từ sự không hợp lí của các hiện tượng, sự kiện mà ông tìm ra được sự lí giải và dẫn đến tìm ra thủ phạm.

Ngày nay các tác phẩm của Erle Stanley Gardner rất được ưa chuộng tại Hoa Kỳ và thế giới. Tất cả các ấn bản tổng cộng lại trên một triệu cuốn hàng năm. Sách của ông được in ra mười thứ tiếng và hầu như đều được dịch ra chữ Braille dùng cho người mù.

Với trên 150 tác phẩm trinh thám, được ghi nhận, được dịch ra 37 thứ tiếng và có gần 350 triệu bản. Theo Guiness, quyển sách ghi các kỷ lục thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại, hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Christie, Harold Robbins, Barbara Carland và Louis L’amour. 

Giải Mã Tiếng Tru Của Chó Sói

Theo các nhà nghiên cứu, chó sói nhiều khả năng sẽ cất tiếng tru thống thiết khi một thành viên gần gũi trong gia đình của chúng rời bỏ đàn.

“Các dữ liệu thu được của chúng tôi chỉ ra rằng, việc tru lên ở chó sói không phải là một phản ứng căng thẳng đơn giản do phải xa lìa các cá thể gần gũi. Thay vào đó, nó có thể được sử dụng linh hoạt hơn để duy trì liên lạc và có lẽ hỗ trợ việc tái hợp với các đồng minh”, tiến sĩ Friederike Range đến từ trường Đại học Dược thú y (Vienna, Áo) và là người đứng đầu nghiên cứu nói.

Tạp chí Current Biology cho biết, nhóm nghiên cứu đã giám sát 9 con sói được bắt nhốt từ 2 đàn khác nhau ở Trung tâm Khoa học về chó sói của Áo. Mỗi ngày, các chuyên gia dắt những con sói đã bị xích này đi dạo, mỗi con một lần. Họ quan sát thấy, mỗi lần chúng được đưa ra ngoài, các con sói còn lại sẽ bắt đầu tru lên thống thiết.

Trong một nỗ lực nhằm điều tra căn nguyên của hành vi đó, nhóm nghiên cứu đã thu thập mẫu máu của chó sói để đo lượng hormone cũng như thông tin về các mối quan hệ trong đàn. Họ cũng ghi lại thời điểm các con sói sẽ phản ứng và con vật nào tru nhiều nhất.

Nhóm nghiên cứu khám phá ra rằng, chó sói tru nhiều hơn khi một con sói đặc biệt gần gũi với nó hoặc thuộc phân cấp xã hội cao hơn, rời đàn. Không có bất kỳ liên hệ nào giữa lượng hormone gây căng thẳng với mức độ tru của chúng.

Nhóm nghiên cứu cũng phát hiện, khi phần còn lại trong nhóm có thể cảm nhận được sự hiện diện của thành viên trong đàn, ngay cả khi không tận mắt nhìn thấy, chúng cũng không cất tiếng tru. Dẫu vậy, nếu chúng được đưa trở lại vào rừng, chúng sẽ bắt đầu tru lên.

Trong một nghiên cứu trước đó, các nhà khoa học thuộc Đại học Nottingham Trent (Anh) từng nhận thấy, tiếng tru của mỗi con sói mang tính cá thể cao, ám chỉ loài động vật này có thể nhận dạng được bằng tiếng tru đặc trưng. Họ hy vọng, phát hiện này sẽ mang tới cho các nhà bảo tồn một cách thức chính xác để lần theo dấu vết của chó sói – loài động vật đóng một vai trò thiết yếu trong chuỗi thức ăn, nhưng có thể là tai họa đối với người nông dân.

Nguồn: Vietnamnet

Sách Tiếng Chó Tru Trong Đêm Pdf/Ebook/Epub

Tác giả : Erle Stanley Gardner

Nội dung sách Tiếng Chó Tru Trong Đêm

~oOo~

– Xin mời vào, thưa ngài Cartrait, – Della Street mở cửa. – Ông Mason đang đợi ngài ạ.

Người đàn ông cao lớn vai rộng gật đầu và đi vào văn phòng.

– Ngài là Perry Mason? – Ông ta hỏi. – Ngài là luật sư ạ?

– Vâng, – Mason đáp. – Xin mời ngài ngồi.

– Cảm ơn ngài, tôi thích loại thuốc khác hơn.

– Thư kí của tôi báo với tôi rằng. – Mason thong thả nói. – ngài muốn trò chuyện cùng tôi về con chó và về bản di chúc.

– Về con chó và di chúc, – người đàn ông lặp lại như tiếng vọng.

– Được rồi. Đầu tiên chúng ta bàn về bản di chúc, bởi vì tôi hiểu biết về chó ít lắm!

Mason kéo cuốn sổ tay lại gần mình và cầm lấy bút máy.

– Tên ngài là gì?

– Artur Cartrait.

– Tuổi?

– Ba mươi hai.

– Địa chỉ thường trú?

– 4893, Milpas Draiv.

– Có vợ hay độc thân?

– Lẽ nào điều đó lại có ý nghĩa gì chăng?

– Vâng, – Mason nói, ngước nhìn khách hàng.

– Điều đó không quan trọng đối với di chúc, – ông kia cự lại.

– Mặc dù thế vẫn cần.

– Vợ ngài tên là gì?

– Paula Cartrait.

– Bà ấy sống với ngài chứ?

– Không.

– Vậy thì ở đâu?

– Tôi không rõ.

Mason ngẩng đầu lên khỏi cuốn sổ tay.

– Được rồi, – ông nói sau một khoảng im lặng ngắn, – trước khi chúng ta quay lại những chi tiết về cuộc sống gia đình ngài, chúng ta hãy nói về việc ngài định làm gì với tài sản của ngài. Ngài có con cái không?

– Không.

– Ngài muốn để tài sản của mình lại cho ai?

– Trước hết hãy nói với tôi, bất kể việc người viết ra di chúc chết như thế nào, nó có còn hiệu lực hay không?

Mason im lặng gật đầu.

– Chúng ta cứ cho rằng, – Cartrait tiếp tục. – theo phán quyết của toà vì vụ án mạng con người gây ra, y sẽ chết trên giá treo cổ hoặc trên ghế điện. Chuyện gì sẽ xảy ra với di chúc của y?

– Con người có từ giã cuộc đời bằng cách nào đi nữa thì cũng không ảnh hưởng đến hiệu lực di chúc về mặt pháp lí, – Mason đáp.

– Cần bao nhiêu người làm chứng cho một bản di chúc?

– Hai, với một loại tình huống và không cần một ai, với những tình huống khác.

– Ngài có ý gì?

– Nếu di chúc được đánh máy và ngài kí, thì chữ kí được khẳng định bởi hai nhân chứng. Nếu bản di chúc được viết tay toàn bộ, kể cả ngày tháng và chữ kí, và không có một chữ nào được đánh máy, thì theo luật pháp của bang này, không cần đến nhân chứng. Bản di chúc như thế có hiệu lực pháp lí và việc thi hành nó là một điều tất yếu.

Artur Cartrait thở phào nhẹ nhõm.

– Gì đi nữa, thì ít nhất với điều này mọi thứ cũng đã rõ.

– Ngài muốn để tài sản lại cho ai? – Mason nhắc lại.

– Bà Clinton Fouli, sống tại Milpas Draiv, 4889.

Mason sửng sốt nhướng lông mày.

– Cho bà hàng xóm ư?

– Cho bà hàng xóm, – Cartrait khẳng định.

– Thì tôi có giấu giếm gì đâu! – Cartrait kêu lên nôn nóng.

– Tôi không tin chắc vào điều đó, – Mason nhận xét trầm tĩnh. – Thế nhưng chúng ta quay lại với di chúc của ngài đã.

– Tôi nói hết rồi.

– Hết là thế nào?

– Sở hữu riêng của tôi tôi di chúc lại cho bà Clinton Fouli.

Perry Mason đặt bút xuống bàn.

– Nếu thế thì chuyển sang chuyện con chó vậy.

– Con chó tru.

Mason gật đầu vẻ khuyến khích.

– Cơ bản là nó tru vào ban đêm, nhưng đôi khi cả ban ngày. Tiếng tru này đẩy tôi đến chỗ phát điên. Thì ngài cũng biết, lũ chó tru khi có ai đó chết.

– Con chó này sống ở đâu?

– Trong ngôi nhà bên cạnh.

– Tức là bà Clinton Fouli sống một phía nhà ngài, còn từ phía khác, con chó đã tru?

– Không, con chó tru trong nhà của Clinton Fouli.

– Hiểu rồi, – Mason gật đầu. – Hãy kể cho tôi nghe về mọi chuyện đi, thưa ngài Cartrait.

Người khách dụi đầu mẩu thuốc lá vào cái gạt tàn, đứng lên, đi đi lại lại trong văn phòng và quay trở lại ghế bành.

– Ngài nghe này, tôi rất muốn hỏi ngài thêm một câu về bản di chúc.

– Tôi nghe đây.

– Chúng ta cứ giả sử rằng, bà Clinton Fouli trong thực tế không phải là bà Clinton Fouli.

– Ngài có ý nói gì?

– Chúng ta cứ cho là bà ta sống với ông Clinton Fouli như một người vợ chính thức, nhưng đám cưới của họ không có đăng kí hợp pháp.

– Điều đó không có ý nghĩa gì, – Mason chậm rãi đáp, – nếu trong bản di chúc của mình, ngài miêu tả bà ta như “bà Clinton Fouli, sống với ông Clinton Fouli, theo địa chỉ Milpas Draiv, 4889”. Nói đúng hơn, người làm di chúc có quyền để lại sở hữu của mình cho bất cứ ai, nếu bản di chúc xác định rõ ràng ý định của người đó. Ví dụ, người đàn ông để tài sản của mình cho vợ, nhưng sau đó hoá ra rằng họ đã không đăng kí một cách chính thức. Đôi khi gia tài được để lại cho các con trai, mà lại không phải là con trai họ…

– Tôi không quan tâm điều đó, – Cartrait sốt ruột cắt lời ông. – Tôi muốn biết sự thế sẽ thế nào trong trường hợp cụ thể của tôi thôi. Bà Clinton Fouli có cần phải là vợ hợp pháp của Clinton Fouli hay không?

– Điều đó không nhất thiết.

– Thế nếu như, – cặp mắt Cartrait biến thành hai khe hẹp, – vẫn tồn tại bà Clinton Fouli đích thực? Nếu Clinton Fouli có vợ và chưa li dị với người vợ hợp pháp của mình, còn tôi di chúc lại sở hữu của mình cho bà Clinton Fouli đang sống với ông ta trong một ngôi nhà?

– Tôi đã giải thích với ngài rồi, – Mason nhẫn nại đáp, – điều chủ yếu: Đó là dự định của người lập di chúc. Nếu ngài viết là ngài để lại sở hữu riêng của ngài cho người phụ nữ hiện đang sống theo địa chỉ được nêu như là vợ của Clinton Fouli là đủ. Nhưng như tôi hiểu, ông Fouli vẫn còn sống chứ?

– Dĩ nhiên, ông ta vẫn sống. Ông ta là hàng xóm của tôi.

– Hiểu rồi. Và ông Fouli có biết ngài sắp để lại tài sản cho vợ ông ấy không?

– Tất nhiên không, – Cartrait cắt ngang. – Ông ta chẳng biết gì hết và sẽ không được biết gì cả.

– Được rồi, với điều đó mọi sự đã rõ. Chúng ta chuyến sang chuyện con chó.

– Ngài phải làm gì đó với con chó này.

– Đề xuất của ngài?

– Tôi muốn để người ta bắt Fouli vào tù.

– Dựa trên cơ sở nào?

– Trên cơ sở là tiếng chó tru làm tôi phát điên. Đó như là sự tra tấn. Lão dạy cho nó tru. Trước đây con chó không tru. Nó chỉ mới tru một, hai đêm vừa rồi thôi. Lão cố ý chọc tức tôi và vợ của lão. Vợ lão đang ốm, mà con chó cứ tru như trước cái chết của ai đó vậy, – Cartrait lặng đi, thở nặng nhọc.

Mason lắc đầu.

– Thật tiếc, thưa ngài Cartrait, tôi sẽ chẳng giúp gì được cho ngài. Trong lúc này tôi rất bận. Thêm nữa, lại vừa kết thúc một vụ tố tụng khó khăn và…

– Tôi biết, tôi biết, – Cartrait cắt lời ông. – Và ngài nghĩ rằng tôi là một gã thần kinh. Ngài cho rằng tôi đề nghị ngài một thứ vặt vãnh gì đó. Đâu phải như thế. Tôi đề nghị ngài làm một việc cực kì quan trọng. Và tôi đến với ngài chính là bởi vì ngài đã thắng vụ tố tụng ấy. Tôi theo dõi tiến trình của nó, thậm chí đã đến phòng xử án để nghe ngài. Ngài là một trạng sư chân chính. Lần nào ngài cũng vượt lên trước biện lí tối thiểu là một nước đi.

Mason mỉm cười yếu ớt.

– Cảm ơn vì những lời tốt lành, ngài Cartrait ạ, nhưng xin ngài hiểu cho. Tôi là luật sư tư pháp. Việc lập các bản di chúc không phải là lĩnh vực của tôi, còn tất cả những gì dính líu đến con chó, thì chúng ta có thể điều chỉnh được mà không cần sự can thiệp của luật sư.

– Không! – Cartrait kêu lên. – Ngài chưa biết Fouli đấy thôi. Ngài không tưởng tượng nổi đó là hạng người thế nào đâu. Có thể là ngài nghĩ rằng tôi không có tiền? Tôi có tiền, và tôi sẽ trả rất khá cho ngài, – ông ta lôi từ túi ra cái ví căng phồng, mở nó, bàn tay run rẩy rút ra ba tờ giấy bạc và đặt chúng lên bàn. – Ba trăm đôla. Đó là đặt cọc. Sau này ngài sẽ được nhận nhiều hơn.

Các ngón tay của Mason đánh nhịp trên mặt bàn.

– Thưa ngài Cartrait, – ông thốt ra dè dặt, – nếu ngài muốn để tôi làm luật sư cho ngài, tôi yêu cầu lưu ý tới điểm sau: Tôi sẽ chỉ làm điều gì mà theo niềm tin của tôi là đem lại lợi ích cho ngài. Chắc ngài hiểu?

– Tôi mong được như thế.

– Có nghĩa là tự tôi sẽ quyết nên làm gì để bảo vệ trọn vẹn nhất các quyền lợi của ngài.

– Tốt, – Cartrait đáp.

Mason cầm tiền ở bàn và bỏ chúng vào túi.

– Đã thoả thuận xong. Tôi sẽ đại diện cho ngài trong vụ này. Nghĩa là ngài muốn Fouli bị bắt?

– Vâng.

– Đành thế, điều đó cũng không phức tạp gì lắm. Ngài cần đâm đơn kiện, và chánh án sẽ viết lệnh bắt giữ. Nhưng tại sao ngài lại nhờ cậy tôi? Ngài muốn để tôi giữ vai trò đại diện của nguyên cáo?

– Ngài chưa biết Fouli, – Artur Cartrait nhắc lại. – Lão sẽ chẳng để cho yên thế đâu. Lão sẽ đâm đơn ra toà hặc tôi vì sự buộc tội giả trá. Có thể là lão bắt con chó tru, nhằm nhử tôi vào bẫy đấy.

– Con chó giống gì?

– Bécgiê cảnh sát to tướng.

Perry Mason liếc nhìn Cartrait và mỉm cười.

Cartrait thở phào nhẹ nhõm.

– Giờ ngài mới nói ra vấn đề. Chính tôi cần một lời khuyên như thế. Chúng ta tìm ông trợ lí ở đâu đây?

– Bây giờ tôi sẽ gọi điện thoại cho ông ấy và thỏa thuận về cuộc gặp, – Mason đáp. – Xin thứ lỗi, tôi phải ra ngoài một lát. Xin ngài hãy cứ tự nhiên như ở nhà vậy.

– Hãy cố thoả thuận với ông ấy vào ngay hôm nay. Tôi sẽ không chịu đựng thêm nổi một đêm nữa với con chó tru đâu.

Khi Mason rời khỏi văn phòng, Cartrait lấy thuốc lá ra. Để châm thuốc, ông ta buộc phải lấy tay khác đỡ bàn tay cầm que diêm…

Ở phòng tiếp khách Della Street ngẩng đầu lên.

– Bị cắm sừng à? – Cô hỏi.

– Tôi không biết, – Mason đáp, – nhưng tôi cố làm sáng tỏ điều đó. Hãy nối tôi với Pit Dorcas. Tôi dự định chuyển vụ này cho ông ta.

Trong khi Della quay số, Mason đứng cạnh cửa sổ, ngó xuống cái giếng xi măng, từ đó vọng lại tiếng động của xe cộ.

Dorcas ở đầu dây.

Mason quay lại, đi đến chiếc bàn đặt trong góc phòng tiếp khách và nhấc ống nói.

– Chào anh Pit. Perry Mason đây. Tôi sẽ đưa khách hàng của tôi tới chỗ anh, nhưng tôi muốn cho anh biết trước vấn đề nói về việc gì.

– Ông ta cần gì?

– Ông ta muốn đâm đơn kiện.

– Về lí do gì?

– Về con chó tru.

– Về…

– Phải, phải, con chó tru. Hình như trong khu chúng ta đã có một nghị định cấm giữ chó tru sủa trong vùng dân cư.

– Đúng là có, nhưng có ai để ý đến nó đâu. Chí ít tôi cũng chưa vấp phải những lời than phiền như thế.

– Đây là trường hợp đặc biệt. Khách hàng của tôi đang phát điên hoặc đã điên rồi vì tiếng tru này.

– Chỉ vì tiếng chó tru ấy à?

– Tôi muốn làm sáng tỏ chính cái điều đó. Nếu khách hàng của tôi cần đến sự giúp đỡ về y tế, hẳn tôi muốn để ông ta nhận được nó. Chính anh cũng hiểu, ở người này tiếng chó tru chỉ gây ra sự bực bội, với người khác có thể làm họ phát điên.

– Điều đó là chính xác, – Dorcas đồng ý. – Anh đưa ông ta đến gặp tôi chứ?

– Vâng. Và tôi muốn buổi trò chuyện của chúng ta diễn ra với sự có mặt của nhà tâm thần học. Không nên nói với ông ta đó là bác sĩ, anh cứ giới thiệu ông ấy như trợ lí của anh, và cứ để ông ấy đặt vài ba câu hỏi. Lúc đó, chắc chắn chúng ta sẽ rõ ngay trạng thái tâm lí khách hàng của tôi.

– Tôi sẽ đợi các anh, – ngừng một chút, Dorcas nói.

– Chúng tôi sẽ có mặt sau mười lăm phút. – Mason đặt ống nói xuống.

Giải Mã Tiếng Tru Của Chó Vào Ban Đêm

1. Về mặt tâm linh

Từ ngày xưa, chó đã là một loài vật mang ý nghĩa thần thoại và có phần linh thiêng. Chúng ta thường nghe ông bà kể lại rằng, mỗi khi chó tru tiếng thật dài và dai dẳng thì có nghĩa là chúng thấy ma. Vì con người không thể nhìn thấy được hồn ma nên mỗi lần nghe tiếng tru của chó, chúng ta lại nhớ về câu chuyện này mà tưởng tượng có ma xuất hiện đâu đó quanh chúng ta.

Trong thần thoại Hy Lạp cổ đại, loài chó được giao nhiệm vụ canh gác cánh cổng địa ngục nên những tiếng tru này cũng mang hàm ý tâm linh nhiều hơn, chúng có khả năng xua đuổi hồn ma cho chúng ta.

2. Dưới góc nhìn khoa học hiện đại

Ngày nay, các bác sĩ và nhà khoa học đã nghiên cứu và chỉ ra tiếng tru của chó là dấu hiệu của nhiều sự bất thường.

2.1. Đầu tiên, tiếng tru là “tiếng nói” của chó

Mỗi loài động vật đều có phương thức giao tiếp khác nhau bắt nguồn từ tiếng kêu hoặc âm thanh ở tần số mà con người không thể nghe hay hiểu được. Với loài chó, tiếng sủa, tiếng rên hay tiếng tru là các thức chúng giao tiếp với đồng loại.

Với loài chó hoang hay chó chưa được thuần chủng, chúng dùng tiếng hú để đánh dấu lãnh thổ khi không muốn bị xâm phạm lãnh địa. Hoặc đơn giản, chúng hú những tiếng rất dài để tìm thấy nhau. Ngày nay, chó mà chúng ta nuôi đã được thuần hóa và rất hiếm khi chúng hú những tiếng hoang dã nhưng đặc tính này vẫn còn tồn tại chứ không hề biến mất.

Chó tru để giao tiếp với đồng loại

Thỉnh thoảng chó nhà sẽ phát ra tiếng tru khi nghe những âm thanh lớn như tiếng còi xe hay tiếng chuông báo động. Chắc hẳn bạn cũng từng xem video những loài chó có nguồn gốc từ chó săn hay chó kéo xe như husky, alaska thường hú inh ỏi khi chúng nghe được tiếng hú của “tổ tiên” trên tivi rồi chứ.

Bạn cần biết rằng, tiếng tru này cũng là tập tính bầy đàn, nghĩa là một con phát tiếng tru thì những thành viên khác trong nhà cũng bắt chước theo. Đây là tập tính di truyền của chúng mà chúng ta dẫu có thuần hóa cũng không thể thay đổi được.

2.2. Chó tru nghĩa là chúng đang rất cô đơn

2.3. Tiếng tru là dấu hiệu bất ổn về sức khỏe

Chó không nói được vì thế chúng dùng cách khác để thông báo tình trạng sức khỏe thông qua tiếng hú, tiếng tru hay tiếng rên. Điều này cũng giống như chúng ta đang khóc khi đang chịu cơn đau vậy.

2.4. Chó muốn thu hút sự chú ý qua tiếng tru

Những loài chó có kích thước lớn như Alaska, Husky, Beagle hay Siberian rất thường xuyên tru và thông qua tiếng tru này để giao tiếp với nhau.

Thế nhưng bạn có biết không, bên trong những thân hình to lớn kia là trái tim nhỏ bé và mỏng manh khi đơn giản là chúng tru chỉ để chủ nhân để mắt đến chúng hơn mà thôi. Chúng luôn muốn được vuốt ve, âu yếm, đùa giỡn hay dắt đi dạo vì thế chúng tru lên cho đến khi “vòi” được mới thôi đấy. Đôi khi đói bụng và muốn được cho ăn, chúng cũng tru lên những tiếng khá dài.

Đôi khi chó cũng tru khi chúng đói

3. Làm thế nào để hạn chế tiếng tru của chó?

Rõ ràng mà nói, tiếng tru của chó không hề dễ chịu chút nào và còn gây ồn, ảnh hưởng đến hàng xóm nữa. Để giảm tiếng tru của chó, King Pet mách nhỏ bạn một vài mẹo như sau:

Thường xuyên gần gũi, vuốt ve và chơi đùa với chó để chúng không cảm thấy cô đơn

Đối với cún con vừa xa mẹ, hãy để chúng ngủ cùng bạn hoặc ở nơi an toàn để chúng không cảm thấy sợ hãi

Nếu không có điều kiện ở gần các bé nhiều thì bạn cũng có thể để áo hay khăn cũ không dùng nữa chỗ cún nằm nhằm giúp chúng giảm cảm giác cô đơn và sợ hãi

ăn uống

Bên cạnh đó, hãy thường xuyên quan sát những dấu hiệu bất thường ở chó và nhanh chóng đưa chúng đến bác sĩ khi sức khỏe giảm hay chó có dấu hiệu bỏ

Top 3 Giống Chó Becgie Nổi Tiếng

Chó Becgie là giống chó chăn cừu nổi tiếng xuất hiện từ cuối thế kỷ 19, có nguồn gốc từ nước Đức. Trải qua hơn 100 năm phát triển, chó Becgie vẫn giữ được những ưu điểm nổi trội từ tổ tiên. Tuy nhiên chúng đã phân hóa thành nhiều dòng khác nhau, trong đó nổi tiếng nhất phải kể đến 3 loại: Becgie Đức, Becgie Bỉ (Malinois) và Becgie Nga.

1. Chó Becgie Đức

Becgie Đức hiện nay được chú trọng vào thẩm mỹ hơn nên có hình dáng khác xa so với giống tổ tiên đầu thế kỷ 19. Chúng có đầu rộng, ke tai dựng và lớn, lưng cong trong khi giống Becgie ban đầu có cái đầu nhỏ, tai nhỏ và lưng thẳng.

2. Becgie Bỉ (chó Malinois)

Chó Becgie Bỉ (hay còn gọi là chó Malinois) được lai tạo từ chó Becgie Đức với giống chó chăn cừu bản địa, vào cuối những năm 1800. Chó Malinois đến tận ngày nay vẫn chưa được các tổ chức lớn (trong đó có AKC) công nhận là 1 giống chó độc lập, mà chỉ được coi là một nhánh của chó Becgie Đức.

Chó Becgie Bỉ có kích cỡ trung bình với khung xương nhẹ, khi đứng chân sau luôn thẳng tạo nên một khuôn hình vuông vức với nhiều loại màu lông. Cấu tạo xương đầu của chúng thon, gọn và đôi tai nhỏ, có hình tam giác nhọn. Đây là giống chó thông minh, nhanh nhẹn và dễ huấn luyện. Ngoài được nuôi trong các gia đình, chúng còn được đào tạo trở thành chó nghiệp vụ phục vụ trong ngành công an, quân đội.

3. Chó Becgie Nga

Chó Becgie Nga là dòng được lai từ chó Becgie Đức thuần chủng và giống chó tuyết bản địa của Nga, xuất hiện ở Liên Xô vào những năm 1930. Chúng sở hữu trí tuệ và sự dẻo dai của chó Becgie Đức, đồng thời có khả năng chịu lạnh tốt thích hợp với khí hậu của Nga. Chó Becgie Nga thường được đào tạo để thực hiện nhiệm vụ tuần tra biên giới Liên Xô và các nước Đông Âu.