Xu Hướng 3/2023 # Sự Khác Biệt Giữa Chó Golden Retriever Và Labrador Retriever # Top 10 View | Dhrhm.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Sự Khác Biệt Giữa Chó Golden Retriever Và Labrador Retriever # Top 10 View

Bạn đang xem bài viết Sự Khác Biệt Giữa Chó Golden Retriever Và Labrador Retriever được cập nhật mới nhất trên website Dhrhm.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Chó tha mồi Labrador và chó tha mồi vàng là hai giống chó rất khác nhau.

Chó tha mồi vàng hay chó tha mồi Labrador – bạn có biết sự khác biệt giữa hai giống chó phổ biến này không? Cả hai đều được biết đến với năng lực thể thao, lòng trung thành không bị ràng buộc và tính tình hiền lành. Bên cạnh kích thước và tên của chúng, đó là nơi tương tự kết thúc. Đọc để tìm hiểu làm thế nào bạn có thể phân biệt giữa hai.

Golden Retriever: Tại nhà ở Tây Nguyên

Chó tha mồi vàng được phát triển ở Scotland vào giữa thời kỳ 1860 để làm việc như một con chó săn có tay nghề cao. Nhưng nó không mất nhiều thời gian để giống chó này có được danh tiếng như một người bạn đồng hành trìu mến và tận tụy. Theo Câu lạc bộ chó giống Mỹ, Nam tước Tweedmouth đã phối giống một chú chó tha mồi màu vàng và một con vẹt nước Tweed để phát triển chú chó tha mồi vàng đầu tiên. Thông qua việc giao phối có chọn lọc với setters và chó săn Ailen, Tweedmouth đã tinh chỉnh khứu giác nhạy bén của Golden Retriever để định vị và quay trở lại những con chim săn mồi trong khoảng cách xa.

Chó tha mồi Labrador: Một con chó nước thực sự

Nó chỉ ra rằng Labs không phải từ Labrador. Những con chó tha mồi đáng tin cậy này có nguồn gốc từ khu vực lân cận Newfoundland. Từng được gọi là chó nước của St. John, chúng được đổi tên thành chó tha mồi Labrador để giúp phân biệt chúng với giống chó Newfoundland. Vượt qua với những con chó săn, setters và spaniels khác trong thời gian giữa 1800, Labs được lai tạo để bơi trong vùng nước lạnh, chịu được khí hậu băng giá và giúp đỡ ngư dân khi họ bắt được cá.

Sự khác biệt của Golden Retriever và Labrador Retriever

Những chiếc áo khoác dễ phân biệt là những gì thực sự làm cho chó tha mồi vàng và chó tha mồi Labrador nổi bật với nhau. Chó tha mồi vàng là những con chó lông dài với bộ lông màu vàng đặc. Những người làm tổ quyết định nhận nuôi một vinh quang vàng sẽ cần phải cam kết thường xuyên tắm rửa và chải chuốt. Để so sánh, bộ lông của chó săn Labrador bảo trì thấp là ngắn, rậm và sáng bóng; được thiết kế hoàn hảo để chịu được các yếu tố. Không giống như người anh em đơn sắc của nó, bộ lông đáng yêu của Labrador retriever có thể có màu sô cô la, đen hoặc vàng.

Golden Retriever và Labrador Retriever: Đặc điểm vật lý

Mặc dù Labradors và chó tha mồi vàng có chiều cao trung bình và nên cân nặng giữa 55 pounds và 75 pounds, vóc dáng của vàng là kiểu dáng đẹp và duyên dáng, trong khi Labrador thường có nhiều cơ bắp và cơ bắp. Cái đuôi giống như lông của chó tha mồi vàng là một cái bắt mắt, so với đuôi của con chó săn Labrador thực tế, lông ngắn, hình phẳng. Goldens thường được cho là có các đặc điểm trên khuôn mặt mềm mại hơn so với Labs, có đường nét mạnh mẽ, rắn chắc. Bất chấp sự khác biệt về thể chất của chúng, đặc điểm của những chiếc răng nanh đáng yêu mà cả hai chia sẻ là một khuynh hướng nhẹ nhàng làm cho cả một thú cưng quý giá.

Sự Khác Biệt Giữa Golden Retriever Và Labrador Retriever

Hình thể là sự khác biệt đáng chú ý nhất của 2 giống chó này. Đối với độ tuổi trưởng thành, Golden thường cao hơn Labrador do cấu trúc xương của chúng khác nhau. Chính vì vậy, Golden Retriever thường có thân hình to hơn, dễ mắc các vấn đề về cân nặng như béo phì.

Golden Retriever thuộc dòng chó thể thao. Phân loại 7 nhóm chó

Golden Retriever thuộc dòng chó đại với cân nặng từ 26 – 44kg (Ảnh: chúng tôi

Lông của Labrador gồm 2 lớp lông riêng biệt, chúng có lớp lông mỏng mềm, dày giúp giữ ấm, lớp ngoài ngắn và có thể chịu nước.

Đối với Golden, chúng thường có lông dài và dày tuy nhiên chúng lại không chịu được độ ẩm.

Ngoài ra, nhìn vào màu sắc lông chúng ta cũng có thể nhận biết được 2 giống chó này. Labrador thường có màu vàng, socola hoặc đen, trong khi Golden Retriever thường có màu nâu đỏ hoặc vàng nhạt.

Cả 2 giống chó này đều rất được yêu thích nhờ vào tính cách tuyệt vời. Tuy nhiên, Labrador có khuynh hướng năng động hơn Golden.

Labrador Retriever (Ảnh: chúng tôi

Golden có lớp lông dài và dày, chính vì vậy chúng thường hay bị rối lông, tạo thành những búi lông bện trong lớp lông của chúng. Chải lông cho chúng 2-3 lần mỗi tuần sẽ giúp cải thiện tình trạng này.

Cả 2 giống chó này đều có làn da nhạy cảm, chính vì vậy việc bổ sung dinh dưỡng từ chế độ ăn đúng sẽ giúp hỗ trợ nhiều hơn cho sức khỏe của da.

Chế độ dinh dưỡng dành cho giống chó kích cỡ lớn

Dù có sự khác biệt về hình thể, Golden Retriever và Labrador Retriever đều là giống chó cỡ lớn, nguồn dinh dưỡng chúng cần đều như nhau, là loại thức ăn cho chó cao cấp. ROYAL CANIN hiểu được điều đó và đã cho ra đời sản phẩm ROYAL CANIN MAXI cùng những đặc tính nổi bật.

Sự Khác Biệt Giữa Chó Và Chó Sói (Động Vật)

Chó vs chó sói

Cả chó sói và chó đều thuộc họ chó, nhưng trong khi chó và chó sói là những động vật khá khác nhau, chúng có chung một số đặc điểm thú vị, như hành vi và ngoại hình. Chó sói cũng được biết đến với tên khoa học là ‘Canis latrans’, cũng có nghĩa là ‘chó sủa’. Chó được biết đến một cách khoa học là ‘Canis lupus quenis’. Giống như chó sói, chó có hình dáng gần giống chó sói. Trên thực tế, chúng là dạng sói thuần hóa. Hầu hết những con chó được nuôi như chó nhà, hoặc là thú cưng, hoặc vì mục đích an ninh, là động vật bảo vệ để tránh hoặc đánh hơi cho các mối đe dọa. Chúng cũng được sử dụng để săn bắn, đồng hành và chăn gia súc. Không giống chó sói, chúng là động vật rất linh hoạt.

Chó sói trông bóng bẩy hơn chó, với mõm nhọn hơn, trán phẳng hơn và đuôi rậm rạp. Chó sói rất thích hú, đặc biệt là lúc chạng vạng. Nếu một con sói nghe thấy tiếng hú của người khác, hoặc thực sự là một tiếng ồn tương tự, nó sẽ chọc vào tai mình, như thể thừa nhận đã nghe thấy âm thanh, và thường sẽ hú lại khi trả lời.

Mặc dù bản dựng của chó sói mang lại cảm giác có đôi chân dài hơn một con chó, nhưng thực tế không phải vậy. Thay vào đó, ‘khuỷu tay’ của nó thấp hơn so với xương ức của nó, trong khi một con chó cao hơn xương ức của nó, do đó, có vẻ như ‘tính hợp pháp’ của một con sói.

Một con chó nhà điển hình là người chăn cừu Đức, và giống chó này có sự tương đồng gần nhất với một con sói. Khi kiểm tra kỹ hơn, hầu hết những con chó trong nhà có khớp ‘khuỷu tay’ cao hơn phần dưới của ngực. Do đó, khi các bản dựng của hai con vật được kiểm tra chặt chẽ, ngực của một con chó sẽ xuất hiện sâu hơn theo tỷ lệ so với chó sói. Chó sói cũng có những vệt dài hơn những con chó, nhưng vì có sự khác biệt lớn về kích thước đường ray của chó, nên đôi khi rất khó để phân biệt. Tuy nhiên, khi một con sói di chuyển sải bước, bàn chân trước và sau của nó hạ cánh ở cùng một vị trí, tạo ra một ‘bước hoàn hảo’.

Giống như chó, hầu hết chó sói có nỗi sợ hãi tự nhiên đối với con người và thường không hung dữ với con người, trừ khi bị khiêu khích. Chó sói chủ yếu ăn động vật nhỏ, như thỏ, chuột chù, chuột đồng và chuột, và đôi khi trên chim, côn trùng, quả mọng và chồn hôi. Đôi khi chúng làm mồi cho thú cưng, chẳng hạn như mèo, vì chúng không thể phân biệt chúng với con mồi tự nhiên. Chó có khả năng sống sót trong nhiều chế độ ăn kiêng, và chúng tiêu thụ một tỷ lệ lớn thực phẩm chay trong chế độ ăn của chúng.

Tóm lược1. Chó thường là động vật được thuần hóa (sống cùng người), còn chó sói sống trong tự nhiên, gần những nơi tự nhiên.2. Chó sói trông bóng bẩy hơn chó, với mõm nhọn và trán phẳng hơn.3. Ngực của chó có vẻ sâu hơn chó sói, tạo ấn tượng rằng chó sói có chân dài hơn chó.4. Chó sói có nhiều dấu vết kéo dài hơn chó.

Dòng Chó Golden Retriever

Thông minh, nhanh nhẹn, dễ huấn luyện, rất điềm tĩnh, hiền lành và tình cảm dù mang trong mình dòng máu của giống chó săn thượng hạng , đó chính là phẩm chất của một chú chó Golden đáng yêu . Chính vì vậy mà chúng thuộc một trong những thú cưng được ưa chuộng nuôi nhiều tại Việt Nam . Chúng còn vui vẻ và hoạt bát và có khả năng trở thành một thành viên tuyệt vời của gia đình.

Golden Retriever (hay còn được biết đến với cái tên chó lông vàng) là giống chó có kích thước trung bình rất được yêu thích. Chúng nổi bật là đẹp, khỏe mạnh, cân đối, với bộ lông màu kem hoặc đỏ . Golden Retriever được lai tạo ra đầu tiên tại các hòn đảo Anh quốc.

Đặc điểm nổi bật – Golden Retriever là giống chó loại nhỡ có thân hình cân đối, khỏe mạnh – Giống chó Golden này có màu lông gồm 2 màu chính đó là màu vàng nhạt và màu vàng xẫm, ngoài ra còn có màu hung đỏ , tuy nhiên theo tiêu bản quốc tế thì màu hung đỏ không được công nhận . Bộ lông được cấu tạo bởi lớp lông không thấm nước bên ngoài và một lớp lông mịn dày bên trong – Đôi mắt  Golden có màu nâu, xung quanh có viền vàng. Đôi tai cỡ nhỡ, cụp. Cổ dài, khỏe và khá cơ bắp, Ngực rộng,  Đuôi dài và không bao giờ cong . Mũi có màu đen

Tính cách – Là dòng chó được xếp vào top những dòng chó thông minh, nhanh nhẹn và chăm chỉ nữa, nên khi dậy chúng bất kỳ một điều gì đó, chúng đều học bài rất nhanh mà chỉ trong một khoảng thời gian ngắn . Chúng dễ dạy dỗ và luôn tỏ ra kiên nhẫn và dịu dàng đối với trẻ nhỏ. Trung thành, tin cậy, dễ bảo và luôn tìm cách làm vừa lòng chủ nhân là các đức tính của chó Golden Retriever. – Đây là giống chó ưa thích các hoạt động ngoài trời. Trong các cuộc thi tại nhiều quốc gia trên thế giới đã có rất nhiều những chú chó thuộc giống Golden Retriever đoạt giải quán quân – Giống chó này còn được biết đến như những người giúp việc cừ khôi cho những thợ săn chim và vịt trời. Chúng có khả năng đánh hơi cực tốt và vì thế thường được sử dụng không chỉ cho các cuộc săn hoặc tìm dấu vết mà còn được trang bị cho các đơn vị quân đội, cảnh sát để phát hiện ra ma túy. chó golden luôn được đội ngũ nghiệp vụ mà túy, chống tội phạm sử dụng huấn luyện trong công việc trinh sát bắt giữ những tội phạm hình sự

Sức khỏe và chăm sóc

Chúng là dòng chó năng động và tinh nghịch , chính vì vậy nếu hàng ngày bạn có thời gian gian, hãy cho chúng đi dạo thường xuyên, tập thể dục thương xuyên giúp chúng gần gũi với mọi người, đặc biệt là trở nên quấn và thân thiết với bạn hơn. Tuổi thọ của một chú Golden Retriever có thể đạt từ 10 đến 12 năm. loài chó này rất hay rụng lông – rụng một ít lông quanh năm và một vài lần trong năm thì rụng nhiều . Chó Golden cũng cần được chải lông thường xuyên để da và lông được khỏe và bóng mượt

Hình Ảnh Đẹp Về Giống Chó Labrador Retriever

Tổng quan

Tổ tiên của chúng là giống chó Newfoundland ở Canada. công việc thường ngày của chúng là giúp những ngư dân kéo lưới bắt cá. Labrador được huấn luyện để nhảy từ trên tàu xuống nước đầy băng tuyết và kéo lưới vây lại giúp những ngư dân bắt cá dễ dàng hơn. Chúng được các thuyền Anh mang về nước vào những năm 1800, và chính ở nước Anh, bản năng tìm kiếm của chúng được phát triển hơn. Chúng cũng trở thành những chú chó gia đình và để bầu bạn bởi bản tính dịu dàng, tình cảm và rất dễ huấn luyện.

Chúng cũng chứng tỏ khả năng trong việc phát hiện thuốc nổ, dắt người mù và giúp việc cho những người tàn tật. Trung thực, điềm tĩnh, thông minh, khi chơi với trẻ nhỏ gây được sự yên tâm cho con người,luôn luôn tự thoả mãn hài lòng, thích hợp cuộc sống vùng ngoại ô. Chó săn Labrador có khứu giác đặc biệt tốt, nên trong cả hai thế chiến giống chó này được dùng để truy tìm địa lôi, hiện nay được dùng để đánh hơi tìm các loại độc dược phạm pháp. Về cơ bản được nuôi trong nhà do đó nên chuẩn bị tốt lồng hoặc phạm vi tương đối rộng cho chúng, bởi giống chó này lớn rất nhanh. Giống chó Labrador chiếm gần tám mươi phần trăm số chó dẫn đường trên toàn thế giới.

Với phương diện là chó săn, chó Labrador là phụ tá vô cùng đắc lực cho thợ săn: hoạt động không mệt mỏi, đánh hơi theo dấu tài tình, hiểu và thực hiện các mệnh lệnh một cách nhanh chóng, tóm tại thuộc hàng xuất sắc trong các nòi chó săn. Chó Labrador có thể tìm kiếm chính xác không bao giờ sai vị trí con mồi bị bắn chết hoặc bị bắn rơi, cả ở trên cạn lẫn dưới nước. Chúng còn có trực cảm tốt, sức chịu đựng dẻo dai, bền bỉ, đặc biệt là khả năng đánh hơi theo dấu máu con mồi dù đã khô sau mấy ngày.

Chó săn thuộc giống Labrador không bao giờ tỏ ra hoảng hốt, giận dữ khi chẳng may bị mất liên lạc với chủ, vẫn miệt mài thực hiện công việc của mình, theo mệnh lệnh mà chủ đã ban ra trước đó. Khi tha con mồi về cho chủ, chó Labrador ngậm nhẹ nhàng đến mức không thể nhận thấy dấu răng trên thân thể con mồi, trong khi đó, với những con chó săn thuộc giống khác, khi mồi được đưa về cho chủ thì giập nát. Chó Labrador tham gia công việc săn bắn không phải do có bản năng hung hãn tự nhiên, mà do ý thức phục tùng người chủ của mình.

Lịch sử

Bắt nguồn từ những con to lớn có tên là Greater Newfoundland, tổ tiên của giống chó Newfoundland hiện tại của Canada, giống nhỏ hơn có tên là Lesser Newfoundland hay St. John’s Dog, giống chó này là tổ tiên của Labrador Retriever và 3 giống chó Retiever khác trên thế giới: Flat-Coated Retriever, Chesapeake Bay Retriever và Golden Retriever, nhưng Labrador Retriever được coi là ít bị lai nhất, vẫn giữ rất nhiều đặc tính của St. John’s Dog. Nguồn gốc của John’s Dog chưa có tài liệu nào ghi lại rõ ràng, vào thế kỷ 15 ở Newfoundland vẫn còn là một vùng hoang sơ, không có chính phủ, chỉ có thổ dân và các tàu đánh cá từ châu Âu tới để đánh bắt loại cá tuyết King Cod rất ngon và có rất nhiều ở vùng biển này, họ đánh bắt cá rồi muối phơi khô để chở về châu Âu.

Những ngư phủ đến tứ châu Âu đã đem theo những giống chó trên tàu, và khi họ định cư ở Newfoundland các giống chó này lai với nhau và được chọn lọc theo quy luật tự nhiên để phù hợp với khí hậu và công việc nên tạo ra giống chó Lab, ca thể nào yếu, không phù hợp với khí hậu và chế độ làm việc sẽ chết, việc đánh bắt cá trên tàu hay dưới biển đòi hỏi con chó phải có sưc khỏe rất tốt và chịu lạnh, vì nước biển ở vùng này rất lạnh. Và những giống chó này có thể là những giống chó của Anh và Bồ Đào Nha. Chúng từng tham gia kéo lưới cá với thổ dân Bắc Mỹ. Mùa đông, nước biển Đại Tây Dương lạnh nhưng chúng có bộ lông dày và lớp lông mao bên dưới không thấm nước nên giữ được thân nhiệt rất tốt. Không chỉ phụ kéo lưới trên thuyền, chúng sẵn sàng lao xuống nước để lùa cá vào lưới và gỡ lưới. Sau mỗi chuyến đánh bắt trở về bờ, chó Labrador còn phụ giúp các ngư phủ kéo cá về nhà.

Có những ý kiến cho rằng những con chó đến từ châu Âu đã lai với giống chó có sẵn ở đó của thổ dân một cách tự nhiên rồi tạo ra giống Labrador. Trước khi người da trắng đến Newfoundland đã có thổ dân da đỏ Beothuks sống ở đó, người ta còn tìm thấy ngôi mộ cổ của thổ dân có chôn theo hai con chó nặng khoảng 45-55 pounds, và như nuôi để làm bạn với con người và dùng để đi săn, đó là chó của những người thổ dân, và những người châu Âu nhìn lầm nó là những con chó sói. Những con chó của thổ dân được đánh dấu rất nhiều trên tai giống như người ta làm dấu với cừu ở bên Anh.

Sau đó người da trắng châu Âu đã săn lùng và tiêu diết những người thổ dân ở Newfoundland, và giống chó của thổ dân Beothuks cũng thoe số phận của những người chủ của nó bị thuyệt chủng. Nếu Lab là giống chó có sẵn ở Newfoundland của thổ dân, thì không hợp lý vì giống chó của thổ dân có cấu trúc gần giống với giống chó Nordic Spitz cổ xưa. Vào thời điểm đó các con chó St. John’s Dog đều chỉ có màu đen và có đốm trắng hai bên má, trước ngực và ở bốn chân, lông ngắn và không thấm nước, lông ngắn để bơi lội ở vùng khí hậu lạnh khi lên bờ nước bám trên lông khong bị đông đá, đây cũng là điểm khác biệt với chó Newfoundland kéo cá ở tren bờ có bộ lông dài.

Vào đầu những năm 1800 người Anh và người Scotland đã nhập những con St. John’s Dog đầu tiên về nước, và họ phát hiện những con chó này rất giỏi trong việc tha mồi trong săn bắn, nhất là săn vịt trời hay những con thú ở những vùng ngập nước, và họ gọi những con St. John’s Dog này là Labrador Retriever, gọi theo tên vùng biển Labrador ở Canada nơi mà nó xuất xứ, để phân biệt với những con Newfoundland. Một bá tước người Anh và bá tước người Scotland cũng đã nhập những con chó St. John’s Dog về để săn bắn, sau khi họ chết, con trai của họ đã chính thức nhập về rất nhiều Labrador từ Canada để nhân giống và mở trại chó Labrador đầu tiên ở Anh và Scotland, họ nói rằng họ cố giữ giống chó này thuần chủng như những con St. John’s Dog ở Canada.

Vào thời đó trò chơi săn bắn rất thịnh hành ở châu Âu, Cũng chưa có các hiệp hội công nhận chó thuần chủng, và người ta sẵn sàng nhân giống bất cứ con gì có tài săn bắn để hoàn thành nhiệm vụ tốt mà không cần chú ý tới vấn đề thuần chủng nhiều. Sau đó giống chó St. John’s Dog khiến nó dần dần đi tới tuyệt chủng do chính quyền Newfoundland đã ra đời vào năm 1870, cho phép mỗi gia đình chỉ được nuôi một con chó vì lúc đó Newfoundland đang phát triển ngành chăn cừu, luật đó để bảo vệ những đàn cừu không bị chó tấn công, và St. John’s Dog đã hiếm dần, đến năm 1930 thì rất hiếm ở Newfoundland.

Vào năm 1895 ở Anh ra luật rất khắt khe đối với những con chó nhập vào nước Anh để tránh lây bệnh dịch từ các nước khác, người nhập chó phải có giấy phép, phải đóng thuế rất cao và chó phải bị giữ lại 6 tháng để kiểm tra trước khi cho về nhà với chủ. Chính vì điều này, lại cộng thêm sự khan hiếm giống chó St. John’s dog ở Canada, vì vậy Labrador ở Anh đã phải nhân giống với những giống chó khác để có được giống chó Labrador ngày nay, nhiều khả năng nó được lai với Setter, Spaniels và những giống Retriever khác, vì vậy Lab ngày nay nhìn gần giống với St. John’s dog, nhưng không có đốm trắng ở hai bên mõm và ở chân, chỉ còn đốm trắng ở ngực, và tiêu chuẩn của Lab cũng không chấp nhận đốm trắng ở bất cứ đâu ngoại trừ ở ngực. Ngay nay khi nhân giống những con Lab thuần chủng với nhau thì rất hiếm khi bị có đốm trắng ở mõm, nhưng nếu lai Lab với những giống chó khác thì lại rất thường gặp điều này.

Đặc điểm

Có hai giống Labrador được biết đến đó là Labrador Anh và Labrador Mỹ. Labrador Anh có nguồn gốc từ nước Anh, và nhìn chung thì có những sự khác biệt giữa các giống này. Labrador Anh có thân hình chắc chắn, người dầy và vuông vức hơn trong khi Labrador nguồn gốc từ Mỹ lại có thân hình cao và thon hơn. Nhìn chung, Labrador là giống chó rắn chắc và khỏe, thân hình khá dài. Kích thước chiều cao trung bình của con đực từ 56-61 cm, con cái từ 53-58 cm. Cân nặng con đực từ 27-34 kg, con cái từ 25-32 kg. Labrador có đầu rộng, mũi dày và hàm sắc bén, mõm của chúng khá rộng, lực cắn của chúng có thể lên đến khoảng 56.6 kg. Cổ rất mạnh mẽ, cặp mắt màu hạt dẻ hoặc nâu đỏ. Cấu trúc xương ở các chi chắc chắn, giữa các ngón chân có màng giúp chúng bơi lội dễ dàng. Tuổi đời chủa chúng khoảng 10 – 12 năm. Giống Lab rất mạnh khỏe, không có bệnh gì đặc trưng thường gặp ở giống chó này, nhưng cũng giống như tất cả các giống chó khác Lab thỉnh thoảng cũng bị hip dysplasia (hở xương hông), elbow dysplasia (hở xương cùi chỏ), Gastric torsion (bloat)- bệnh đầy hơi, xoắn bao tử.

Chúng có bộ lông ngắn, cứng, dễ chăm sóc. Lông của chúng gần như thẳng, không một gợn sóng, các màu phổ biến là đen,vàng và sôcôla. Labrador thường có nhiều màu biến đổi từ vàng nhạt đến nâu đậm, thậm chí có màu đen nhưng khá hiếm. Trên thực tế còn tồn tại hai màu khá hiếm gặp là màu bạc và màu xám một số người cho rằng màu bạc và xám là kết quả của sự lai tạp, những người khác lại cho rằng đó đích thị chỉ là sự đột biến. Thời gian chúng thay lông, trong nhà đầy lông chó. Chúng có bộ lông không dài và có một lớp lông mao rất rậm bên dưới hoàn toàn không thấm nước. Lông của chúng hoàn toàn không có mùi hôi và khả năng gây dị ứng vô cùng thấp. Bộ lông của chúng đôi khi còn được gọi là “chất chống dính”, vào mùa xuân tuyết tan hay mùa thu mưa dầm, đường sá, sân vườn lầy lội, chúng có bị lấm bẩn đến mấy thì khi lông khô, mọi thứ chất bẩn bám trên mình đều tự rơi xuống hết. Chúng không sợ băng giá và rất ít khi bị đau ốm, có thể đi dạo ngoài trời khi nhiệt độ xuống đến âm 30 độ, hoặc thậm chí, nếu cần, có thể tắm ở lỗ băng trên mặt sông mùa đông, ngoài ra chúng có đặc tính không kén ăn.

Tập tính

Labrador là giống chó rất tình cảm, trìu mến, đáng yêu và nhẫn nại. là giống chó hiền lành, tốt nết. Chúng rất mến trẻ con, lại không đòi hỏi những điều kiện chăm sóc phức tạp, rắc rối. Mức độ thông minh cao, rất trung thành, bền bỉ và vui vẻ. Chúng rất thích chơi đùa, đặc biệt là với nước bởi chúng thực sự thích bơi lội. Labrador là giống chó tốt và đáng tin cậy, rất thân thiện và yêu mến trẻ nhỏ cũng như hoà đồng với các giống chó khác. Chúng cần những người chủ quan tâm và xem chúng như một phần trong gia đình. Chúng rất dễ huấn luyện, một số cá thể có thể khá dè dặt với người lạ, nhưng nếu hoà đồng chúng thì hoàn toàn không có vấn đề gì.

Giống chó Labrador là một trong những giống chó đứng đầu trong bảng phân cấp các giống chó xét theo khả năng hiểu đúng và thực hiện chính xác một số lượng lớn nhất những câu lệnh của người. Những câu lệnh ngắn gọn, khô khan của con người được chúng tôi chuyển hóa thành ngôn ngữ thuộc cấp độ giao tiếp. Những con chó thuộc giống Labrador đều dễ huấn luyện. Điều quan trọng là bạn hãy giải thích cho chó Labrador biết cần gì, không nên dọa nạt, ép buộc chúng. Hãy thể hiện sự bình tĩnh, tế nhị, đồng cảm, nó sẽ đáp lại bằng sự vâng lời, tính kỷ luật và lòng trung thành.

Labrador là giống chó canh gác chứ không phải là chó bảo vệ mặc dù chúng ta vẫn có thể bắt gặp một số con được đào tạo để làm nhiệm vụ bảo vệ. Nên dạy cho Labrador sớm bỏ xích, bởi vì cổ của chúng rất khoẻ do vậy sẽ rất vất vả để điều khiển nó bằng xích. Đây là một giống chó được nuôi khá phổ biến. Các khả năng của chúng bao gồm đi săn, theo dõi, tìm kiếm đồ vật, canh gác, làm chó cảnh sát để phát hiện ma tuý, dắt người mù, chó phục vụ cho những người tàn tật, tìm kiếm và cứu nạn, thậm chí là kéo xe. Labrador Anh thường điềm tĩnh, thoải mái hơn Labrador Mỹ. Labrador Anh cũng thành thục sớm hơn.

Labrador có thể được nuôi trong căn hộ nếu như được luyện tập đầy đủ, tuy nhiên chúng tỏ ra không năng động lắm khi ở trong nhà, nên có một cái sân với kích cỡ vừa phải để chúng được thoải mái. Chúng là giống chó khoẻ mạnh, do vậy chúng rất hài lòng khi được chơi đùa hay làm việc thường xuyên. Cần có nhiều bài tập thường xuyên cho chúng cộng với một khẩu phần ăn hợp lý để tránh trường hợp trở nên quá béo. Chó Labrador nhất thiết phải được ra ngoài đi dạo mỗi ngày hai lần, không dưới một tiếng đồng hồ. Đó là chủng chó săn, chó thợ, chúng phải luôn có một công việc nào đó mới chịu được. Labrador có bộ lông mượt, ngắn dễ chăm sóc. Mức độ rụng lông là trung bình. Chỉ nên tắm cho chúng khi thực sự cần thiết.

Vật cưng

Chó Lab được nhiều người nổi tiếng trên thế giới nuôi như chó cảnh, có thể kể đến là công chúa Monaco Caroline, vua Gustav của Thụy Điển, tổng thống Estonia Arnold Ruutel, đạo diễn Ý Federico Fellini, các ca sĩ Demis Roussos và Dieter Bohlen, nhà thiết kế thời trang Giorgio Armani, các diễn viên điện ảnh Harrison Ford, Arnold Schwarzenegger, Antonio Banderas, Drew Barrymore, Kevin Costner, Vanessa Paradis và Ted Turner. Chó Labrador cũng được các chính khách như Jacques-Yves Cousteau, Nicolae Ceausescu, Bill Clinton và Francois Mitterrand ưa thích. Trong nhiều thập niên gần đây, chó Labrador thường xuyên có mặt trong các gia đình thuộc hoàng gia Anh. Ở nước Nga, chó Labrador được các nhà lãnh đạo cao cấp hàng đầu như Vladimir Putin, Dmitry Medvedev, Sergei Shoigu yêu quý, các quan chức cấp dưới của họ cũng bắt đầu nuôi chó Labrador.

Nguồn: chúng tôi

Cập nhật thông tin chi tiết về Sự Khác Biệt Giữa Chó Golden Retriever Và Labrador Retriever trên website Dhrhm.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!