Bạn đang xem bài viết Nguồn Gốc Của Giống Chó Berger Đức được cập nhật mới nhất trên website Dhrhm.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Vào năm 1850 ở châu Âu, người ta bắt đầu thực hiện chuẩn hóa các giống chó. Ưu tiên hàng đầu là giữ lại những tính trạng giúp chúng chăn gia súc, bảo vệ bầy cừu và chống lại thú dữ. Việc chuẩn hóa này ban đầu chỉ thực hiện ở Đức.
Những tính trạng được ưa chuộng nhất là trí thông minh, tốc độ, sức mạnh và khứu giác nhạy bén. Từ đây giống chó Berger Đức chính thức được công nhận.
Quá trình lai tạo chó Berger Đức
Mặc dù các nhà lai tạo đã có thể phối ra được loại chó tốt thế nhưng ngoại hình và kĩ năng của của các giống này vẫn không được đồng đều.
Để loại bỏ những khác biệt đó, vào năm 1891 Hiệp hội Phylax tạo ra các chương trình phát triển tiêu chuẩn cho các giống chó bản địa ở Đức.
Một số người khác yêu cầu rằng giống chó phải có vẻ ngoài đồng nhất. Mặc dù Hiệp hội không đạt được mục tiêu của nó, việc tiêu chuẩn hóa chó vẫn được tiếp tục.
Do sự phát triển của các thành phố công nghiệp lớn, số lượng thú hoang ở đây suy giảm mạnh và chó chăn cừu không còn cần thiết. Cùng lúc đó, người ta dần biết đến trí thông minh và sự đa tài của giống Berger.
Max Emil Friedrich von Stephanitz, đại úy kỵ binh, cựu sinh viên của trường Đại học thú y Berlin và là cựu thành viên của Hiệp hội Phylax, duy trì quan điểm là chó phải được phối giống đặc biệt để phục vụ cho công việc.
Tuy nhiên, ông vẫn phải công nhận kỹ năng và sức mạnh của giống Berger. Ông cũng không tìm được giống chó nào có thể làm việc hiệu quả như vậy.
Năm 1899 Stephanitz được dẫn đi xem một con chó tên là Hektor Linksrhein, kết quả phối giống có chọn lọc qua nhiều thế hệ chó.
Con chó đáp ứng hoàn toàn tất cả những yêu cầu của ông: trí thông minh, lòng trung thành đối với chủ nhân và vẻ đẹp của nó.
Stephanitz quyết định mua con chó ngay lập tức và đổi tên nó thành Horand von Grafrath.
Sau đó, ông thành lập tổ chức Verein für Deutsche Schäferhunde (Hiệp hội cho Chó chăn cừu Đức). Horand được coi là chú Berger (chó chăn cừu) Đức đầu tiên và là con chó đầu tiên được đăng ký thông tin tại Hiệp hội. ‘
Horand đã trở thành cơ sở di truyền cho các chương trình nhân giống và được lai tạo với những con chó từ Thuringia, Franconia và Wurttemberg. Nó đã để nhiều con, trong đó có Hektor von Schwaben, được coi là con chó thành công nhất.
Nguồn gốc của tên gọi “chó chăn cừu Đức”
Tên của giống ngựa Deutscher Schäferhund được đề xuất bởi Stephanitz và dịch theo nghĩa đen là “Chó chăn cừu Đức”. Tên được lấy theo mục đích ban đầu của chó là chăn cừu và gia súc.
Vào thời điểm đó, tất cả các đàn gia súc khác đều có cùng tên, do đó tên nó đã được thay đổi thành Altdeutsche Schäferhunde, dịch theo nghĩa đen thành “Chó chăn cừu Đức cũ”.
Lời dịch nghĩa đen của của cái tên này đã trở thành tên chính thức. Tuy nhiên, sau Thế chiến thứ nhất, người ta sợ chữ “Đức” trong tên sẽ làm xấu đi hình ảnh giống chó này.
Do tư tưởng bài trừ Đức, Câu lạc bộ nuôi chó Anh (UK Kennel Club) đổi tên giống chó thành “chó lai sói Alsatian”, được đặt theo tên vùng Alsace của Pháp giáp biên giới với Đức. Tên này đã được nhiều hiệp hội chó quốc tế công nhận..
Về sau, các nhà lai chó bắt đầu phản đối tên “chó lai sói” vì dễ gây hiểu nhầm đây là một giống lai giữa chó và sói. Họ tuyên bố rằng cái tên này sẽ gây tổn hại cho danh tiếng cũng như tính hợp pháp của giống Berger.
Tuy nhiên, thuật ngữ “Alsatian” vẫn được dùng trong một thời gian dài. Mãi đến năm 1977, dưới áp lực của những người yêu thích chó và các câu lạc bộ lai chó ở Anh, cái tên “Chó chăn cừu Đức” mới được khôi phục.
Nguồn Gốc Của Giống Chó Cao Nhất Thế Giới
Thế kỷ 16
Vào giữa thế kỷ 16, giới quý tộc ở nhiều nước châu Âu đã nhập khẩu những con chó mạnh mẽ, chân dài từ Anh, vốn là con lai giữa Chó săn Ailen và Chó Ngao của Anh. Con lai có các kích cỡ và kiểu hình khác nhau và không có giống chó chính thức nào cả. Loại này được gọi là “Englische Docke”, “Englische Tocke” sau này được viết thành “Dogge” hoặc “Englischer Hund” ở Đức. Tên ban đầu có nghĩa đơn giản là “chó Anh”. Ở các nước châu Âu khác cũng có những thuật ngữ tương tự. Sau đó từ “dog” trong tiếng Anh được dùng để chỉ các giống chó molosser ở Đức và ở Pháp.
Thế kỷ 17
Chó Great Dane còn non.
Kể từ đầu thế kỷ 17, những con chó này được giới quý tộc Đức tự lai giống.
Thế kỉ 19
Great Dane được nuôi làm chó săn tìm gấu, lợn rừng và nai ở các cung điện. Giống đẹp nhất và mạnh nhất là ‘Kammerhunde” (chó trong phòng) được đeo vòng cổ mạ vàng và ban đêm được ngủ trong phòng ngủ của lãnh chúa. Chỗ ngủ của chúng rất lớn và thường được phủ da thú hoặc da gấu. Nhiệm vụ của chúng là bảo vệ hoàng tử đang ngủ chống lại sát thủ. Giống chó đẹp thứ hai được đặt tên là “Leibhunde” (chó yêu thích) và được đeo vòng cổ bạc. Tất cả số còn lại vẫn có tên là “Englische Docken”. Chúng không có vòng cổ đặc biệt và được nhốt trong cũi
Chó Great Dane.
Vào giữa thế kỷ 19, giống chó này lại được chú ý đến khi nở rộ lai giống chó và tạo ra các câu lạc bộ chó kiểng dưới cái tên “Ulmer Dogge” và “Dänische Dogge”. Ở các nước nói tiếng Anh, nó ban đầu được gọi là “chó săn lợn rừng Đức”. Trong sách hướng dẫn của nước Anh cái tên “chó săn lợn rừng Đức” chỉ được đổi thành “Great Dane” sau 1894. Một số nhà lai tạo người Đức đã cố gắng phổ biến cái tên “chó giống Đức” hoặc “chó ngao Đức” trên thị trường tiếng Anh, bởi vì giống chó này là chó quý tộc sang trong chứ không phải chó làm việc. Tuy nhiên, những cái tên này không được chấp nhận. “Dogge” nghe có vẻ kỳ lạ và xét tình hình chính trị bây giờ không ai muốn có một con chó Đức hoặc thậm chí là “Reichshund”.
Great Dane và những điều thú vị
– Những chú chó giống như Great Dane đã được tìm thấy ở Ai Cập 3000 TCN.
– Mỗi năm người ta thường bầu chọn chú chó cao nhất. Những người nắm giữ kỷ lục trước đó, bao gồm Gibson (107 cm), Titan (107,3 cm) và George (110 cm) đã bị bỏ lại phía sau, bởi chú chó Zeus cao đến 112.
Chú chó Scooby-Doo được thiết kế dựa trên giống chó Great Dane.
– Scooby-Doo, nhân vật nổi tiếng của hãng Hanna-Barbera, được nhà thiết kế hoạt hình Iwao Takamoto thiết kế dựa trên một chú Great Dane. Takamoto dựa trên những bản phác thảo do một nhân viên Hanna-Barbera có nuôi giống chó này đưa cho anh. Scooby gần giống với Great Dane, mặc dù đuôi của nó dài hơn, mang hình dáng gần giống với đuôi của một con mèo.
– Phối giống các màu harlequin, merle và trắng với nhau, là một hành động gây tranh cãi ở, ví dụ ở Đức hành động này bị cấm theo luật bảo vệ động vật, bởi vì bố mẹ thường có cặp gen lặn, gây ra điếc và mù ở chó con sơ sinh.
Bảo Tuấn (Tổng hợp)
Giống Chó Săn Vịt, Chó Poodle Của Nước Nào? Nguồn Gốc Chó Poodle
1. Nguồn Gốc
Không quá khi nói chó Poodle ngày nay là giống chó “sướng nhất thế giới”. Chúng được chủ cưng chiều, sống trong các căn hộ thoải mái, tiện nghi, ăn thức ăn ngon, được spa chải chuốt thường xuyên,… Nên thật khó để hình dung tổ tiên nguyên thủy của chó Poodle đã trải qua một cuộc sống cực khổ vất vả như thế nào.
Tổ tiên của những chú chó Poodle nhà là giống chó hung dữ, được sinh ra ở những vùng đầm lầy hoang dã giữa nước Đức – Pháp. Chúng được huấn luyện để lội nước và săn vị trời cho thợ săn. Vì vậy, giống chó Poodle còn được gọi là Giống Chó Săn Vịt.
Thực tế, tên Ơoodle trong tiếng anh có nguồn gốc từ chữ “pudel” trong tiếng Đức, có nghĩa là “chó lội nước”. Còn ở Pháp, poodle được gọi là “Caniche”, nghĩa là “chó vịt”.
Chiếc “áo khoác” dày trông như cục bông, thứ tạo nên vẻ đáng yêu của giống chó poodle, trên thực tế được tạo ra phù hợp hoàn hảo với công việc mà chúng vốn được huấn luyện để làm – lội nước bắt mồi. Bộ lông dầy bao phủ khắp cơ thể, đặc biệt là quanh các khớp và vùng bụng, giúp chúng giữ ấm khi ngụp lặn dưới nước trong thời tiết giá lạnh ở châu Âu.
2. Lịch Sử
Poodle được biết đến ở châu Âu từ nhiều thế kỷ trước, tuy nhiên chỉ thực sự được nuôi làm thú cưng trong các gia đình thành thị từ đầu thế kỷ 18, khi những nhà nhân giống bắt đầu “cải tạo” giống nhằm giảm kích thước chó Poodle.
Quá trình lai tạo đã tạo ra 3 dòng Poodle chính là standard, miniature và toy. Trong đó dòng toy được nuôi nhiều nhất vì kích thước nhỏ bé, rất dễ chăm sóc, thích hợp với các căn hộ ở thành thị.
Poodle được nhân giống và nuôi phổ biến ở Mỹ vào cuối thế kỷ 19, từ đó vươn ra khắp thế giới và trở thành một trong những giống chó được yêu thích nhất “mọi thời đại”. Với trí thông minh xuất sắc (đứng thứ 2 trong thế giới loài chó), Poodle xuất hiện trong hầu hết các rạp xiếc thú thời kỳ này và giành được sự mến mộ trong lòng công chúng.
Khoảng năm 1920, nhiều hiệp hội chó giống nổi tiếng trên toàn thế giới bắt đầu công nhận 3 giống chó Poodle theo kích thước là Standard, Miniature và Toy. Và đưa ra những tiêu chuẩn, đặc điểm và tính cách cụ thể cho từng giống.
Toy Poodle có chiều cao tối đa khoảng 25 cm khi đứng, và nặng từ 3 – 5 kg khi trưởng thành. Vì rất nhỏ nhắn xinh xắn nên Toy hầu như chỉ được nuôi để làm thú cưng.
Miniature Poodle có chiều cao tối đa khoảng 40 cm và nặng tối đa 9kg.
Standard Poodle lớn nhất trong họ poodle với chiều cao phổ biến khoảng 40cm, cá biệt những con cao nhất có thể cao tới 50cm và nặng tới 30kg. Với kích thước lớn, Miniature và Standard ngoài được nuôi làm thú cưng, hiện chúng vẫn được huấn luyện để làm các công việc truyền thống.
Ngoài 3 kích thước được công nhận trên, còn có giống Tiny Poodle và Teacup Poodle cũng rất được yêu thích ở Việt Nam và trên thế giới. Tiny Poodle có khối lượng chỉ dưới 3kg, còn Teacup Poodle chỉ nặng dưới 1.5kg – nhỏ đến mức có thể đặt vừa trong một tách trà.
III. Tính Cách Chó Poodle Thuần Chủng
Cả 3 giống chó poodle đều nổi tiếng vì sự tinh nghịch, vui vẻ và cực kỳ thông minh. Poodle được xếp hạng là giống chó thông thứ hai trên thế giới, sau giống Border Collie. Xét về việc huấn luyện, poodle là một học sinh xuất sắc. Chúng rất biết vâng lời, dễ huấn luyện và nhanh nhẹn.
Nếu cần tư vấn chi tiết hơn về đặc điểm và tính cách chó Poodle có phù hợp với bạn và gia đình hay không, bạn có thể liên hệ với chuyên gia về chó Poodle của Thú Kiểng bên dưới để được tư vấn chi tiết nhất.
Poodle là một trong những giống chó dễ nuôi nhất thế giới. Tất cả mọi người, với mọi điều kiện không gian, thời gian và tài chính đều có thể nuôi chó Poodle.
Trên thực tế, Poodle là một trong những giống chó “Tây” được nhân giống và nuôi làm thú cưng sớm nhất ở Việt Nam do thích nghi rất tốt với điều kiện khí hậu. Poodle không hề kén ăn, chúng ăn uống đơn giản và có thể ăn mọi thứ như chó ta. Poodle cũng rất thông minh, dễ huấn luyện nên có thể trở thành người bạn đồng đáng tin cậy.
Đặc biệt, Poodle là một trong số ít những giống chó được khuyến khích nuôi với người bị dị ứng lông chó mèo. Lông chó poodle tuy dày và dài nhưng rất ít rụng. Thêm vào đó, lông chó Poodle xoăn tự nhiên nên số ít lông rụng được quấn lại trên người, không vương vãi ra nhà. Bạn thậm chí có thể giảm số lông rụng còn ít hơn nữa với các loại dầu tắm dành riêng cho chó Poodle.
Nếu có bất kỳ câu hỏi nào về giống chó Poodle, như poodle nuôi như thế nào? Có khó nuôi không? Hay cho ăn ra sao? Có phù hợp với gia đình mình hay không?… bạn có thể liên hệ với chuyên gia chăm sóc chó Poodle của Thú Kiểng theo số bên dưới để được giải đáp mọi thắc mắc thanh chóng và chi tiết nhất.
Nếu bạn đang tìm một bé Poodle Toy hay Tiny đáng yêu, thuần chủng và khỏe mạnh, mời bạn tham khảo một vài đàn Poodle đang bán tại Thú Kiểng ngay bên dưới. Mọi bé Poodle tại Thú Kiểng đều được bảo hành sức khỏe 1 đổi 1 lên tới 6 tháng – 180 ngày để bạn hoàn toàn an tâm khi đón cún về nhà mới.
Nguồn Gốc Của Việc Triệt Sản Chó Mèo
Ở các vùng nông thôn, các BSTY không triệt sản chó mèo cho đến cuối những năm 1940. Tuy nhiên, ở các thành phố, chủ nuôi thường cảm thấy bất tiện và phiền phức khi chó mèo của họ vào thời kỳ động dục kéo theo sự hiện diện của các bé con. Khi thuốc mê bắt đầu phổ biến vào những năm 1930, theo yêu cầu của chủ, các BSTY cũng dần dần áp dụng chất này để gây mê và tiến hành phẫu thuật triệt sản cho chó mèo, ngay cả khi chúng còn rất nhỏ, để ngăn ngừa thời kì động dục.
Vào những năm 1950, con người càng nhận thấy việc triệt sản vật nuôi sẽ đóng góp to lớn cho lợi ích cộng đồng. Tại thành phố New York, BSTY của bệnh viện ASPCA đã phát biểu rằng triệt sản chó mèo sẽ ngăn ngừa và giảm thiểu lượng chó mèo đi hoang, nhưng lại gặp phải vấn đề không có chủ nuôi chấp nhận chăm sóc chúng.
Đến năm 1964, ASPCA bắt đầu triệt sản miễn phí dành riêng cho những chủ vật nuôi gặp khó khăn về tài chính. Trong cùng khoảng thời gian đó, những nhóm nhân đạo xuyên suốt nước Mỹ bắt đầu khuyến khích mạnh mẽ việc thực thi chính sách ngăn cấm việc nhận nuôi chó mèo chưa triệt sản.
Vào năm 1975, bệnh viện Maryland SPCA đã tiên phong trong việc triệt sản cho chó và mèo con. Điều này đã đi đúng theo những chính sách đã đề ra trước đó, yêu cầu người nuôi chỉ được nhận những con chó và mèo, bất kể tuổi tác, đã được triệt sản. Tôi, với cương vị là BSTY, đã thực hiện rất nhiều ca phẫu thuật.
Vào năm 1981, tôi và bác sỹ Amy Freeman Lee đã phối hợp với nhau để tạo nên một chương trình tương tự ở San Antonio, Texas.
Khi phải thực hiện việc cắt bỏ không thương tiếc bộ phận sinh dục của rất nhiều vật nuôi nhỏ tuổi, chúng tôi cũng không lấy gì làm thoải mái. Rất nhiều chó và mèo con là nguyên nhân của việc sinh sản không kiểm soát được khi con cái vào chu kỳ động dục đầu tiên và con đực bắt đầu có nhu cầu về tình dục. Chúng bị bỏ rơi, không có ai chăm sóc và thường xuyên phải đối mặt với những nguy hiểm rình rập xung quanh. Tôi đã thầm ước rằng nếu vật nuôi bị thiến trước khi chúng có thể sinh sản, thì có lẽ chúng ta cũng sẽ không phải thấy quá nhiều chó và mèo con đi lạc và bị bỏ đói cho đến chết.
Những nhà mở cho chó mèo trên khắp nước Mỹ bắt đầu thuê những BSTY có thể làm việc toàn thời gian với một mục đích duy nhất: thực hiện việc triệt sản cho vật nuôi. Các BSTY cũng nhanh chóng tổ chức một cộng đồng riêng. Họ thành lập một tờ tạp chí chuyên nói về lợi ích mà người chủ sẽ có khi triệt sản chó mèo của mình. Tờ tạo chí đã trở thành một nguồn động lực lớn trong cộng đồng thú y. Vào năm 1993, AVMA đã nhanh chóng áp dụng việc triệt sản thú nuôi vào chương trình của họ.
Một vài BSTY hành nghề ở phòng mặt tư đã luôn thắc mắc ưu và khuyết của việc triệt sản chó mèo. Trong Hiệp Hội Thú Y Mỹ, các BSTY thường không có ảnh hưởng gì đến tính thực tiễn của các chính sách. Thông tin được đưa bao gồm những quan niệm đúng và không đúng cũng đã đều được chọn lọc kỹ bởi những nhà cầm quyền.
Đường sinh dục của vật nuôi nhỏ tuổi có ít mạch máu. Điều đó dẫn đến khả năng mất máu nhiều là rất ít. Chúng lại ít bị béo phì, vì thế, việc phẫu thuật sẽ trở nên dễ dàng hơn vì bác sỹ ít phải đối phó với một lượng mỡ quá dầy ở bụng khi cố gắng khâu lại vết thương.
Bên cạnh đó, vật nuôi nhỏ tuổi rất mau lành bệnh. Trong vòng 5 ngày kể từ khi phẫu thuật, vết mổ thiến của chúng sẽ mau chóng lành và hầu như là không đáng lo ngại.
Bên cạnh đó, cắt bỏ buồng trứng sớm còn giúp vật nuôi tránh được các biến chứng do người chủ mang thú nuôi đi xa trong khi chúng đang trong chu kỳ động dục hoặc đang mang thai. Việc này cũng giúp ngăn ngừa các biến chứng khi chẳng may chó mèo của bạn gặp tai nạn hay bệnh tật.
Tuy nhiên, những bác sĩ thú y này cũng biết rất ít về tác động tiêu cực của việc thiến quá sớm đối với sự phát triển bình thường của vật nuôi.
Cập nhật thông tin chi tiết về Nguồn Gốc Của Giống Chó Berger Đức trên website Dhrhm.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!