Xu Hướng 3/2023 # Bệnh Giun Móc Ở Chó # Top 9 View | Dhrhm.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Bệnh Giun Móc Ở Chó # Top 9 View

Bạn đang xem bài viết Bệnh Giun Móc Ở Chó được cập nhật mới nhất trên website Dhrhm.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Bệnh giun móc ở loài chó

Giun móc có thể gây nguy hiểm đến tính mạng, đặc biệt là ở cún con. Như vậy, chủ của thú cưng cần cảnh giác với các dấu hiệu của giun móc ở chó. Những ký sinh trùng hút máu này có thế xâm nhập, trú ngụ và sống trong ruột non của chó. Ở ấu trùng giai đoạn thứ tư, giun móc có thể gây ra chứng thiếu máu và viêm ruột non ở chó. Giun hoạt động để lại các vết cắn và những vết này tiếp tục rỉ máu.

Cả loài chó và loài mèo đều có thể bị bệnh giống như mô tả trong bài. Nếu bạn muốn tìm hiểu ảnh hưởng của bệnh này đối với loài mèo thì hãy truy cập vào trang này.

Triệu chứng của bệnh giun móc ở loài chó

Chú chó có ký sinh trùng trông không khỏe mạnh và ăn không ngon miệng; niêm mạc mũi, môi và tai tái nhợt. Nếu ấu trùng giun móc xâm nhập vào phổi, chú chó sẽ bị ho, cũng như biểu hiện nhiều triệu chứng khác, gồm phân đen và dính, tiêu chảy và táo bón. Nếu chú chó không được điều trị ngay lập tức, nó có thể chết đột ngột.

Nguyên nhân của bệnh giun móc ở loài chó

Chó con thường mắc phải bệnh này từ sữa mẹ. Chó nhiễm ký sinh do nuốt phải hoặc ấu trùng thâm nhập qua da, ấu trùng thường ở trong nước hoặc môi trường bị ô nhiễm.

Chẩn đoán bệnh giun móc ở loài chó

Giun móc không nhìn thấy được bằng mắt thường và do đó phải được bác sĩ thú y tìm thấy qua kính hiển vi trong xét nghiệm mẫu phân. Xét nghiệm này cũng sẽ giúp bác sĩ thú y xác định quá trình điều trị và kê toa. Nếu vài chú chó cùng một lứa đẻ bị chết, thì nên nghi ngờ do giun móc.

Chữa trị bệnh giun móc ở loài chó

Để loại bỏ giun, một loại thuốc giết hoặc trục xuất chúng sẽ được kê toa. Đôi khi chỉ cần uống thuốc đó. Tuy nhiên, bổ sung dinh dưỡng và sắt cũng có thể cần thiết. Chó con nên được uống thuốc giun khi hai tuần tuổi và tiếp tục cho đến khi cai sữa và điều trị hằng tháng sau khi cai sữa để đảm bảo rằng tất cả ấu trùng được loại bỏ.

Với chó mang thai, điều trị loại bỏ giun nên bắt đầu hai tuần sau khi sinh và tiếp tục trong hai đến bốn tuần sau khi chó con được sinh ra, để bảo vệ chó con.

Trong trường hợp nghiêm trọng, chó (hoặc chó con) cần được nhập viện để điều trị bằng liệu pháp truyền dịch, truyền máu và truyền oxy bổ sung, tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của bênh thiếu máu và tình trạng của con vật. Nên biết rằng, chó có khả năng tử vong đột ngột ngay cả khi được điều trị.

Phòng ngừa bệnh giun móc ở loài chó

Môi trường thả chó của bạn cần phải sạch sẽ. Hãy đặc biệt chú ý đến nước đọng trong thùng chứa, khu vực trũng, hoặc thậm chí trong ao. Nếu bạn thấy các triệu chứng được liệt kê phía trên xuất hiện ở thú cưng, hãy đem một mẫu phân đến bác sĩ thú y.

Không thể tiêm chủng phòng ngừa sự xâm nhập của ký sinh trùng, vì vậy cách duy nhất bạn có thể bảo vệ thú cưng của mình là quan sát và hành động nhanh chóng. Và mặc dù trường hợp giun móc hiếm gặp ở người, ký sinh trùng có thể xâm nhập vào da người, vì vậy phải cẩn trọng khi điều trị động vật bị nhiễm ký sinh.

Bệnh Giun Phổi Ở Chó Bạn Đã Biết?

Bệnh giun phổi ở chó, hiện nay đã trở thành căn bệnh phổ biến ở khu vực phía nam nước Anh và South Wales, thống kê số lượng bệnh án ở các khu vực miền Bắc nước Anh và Scotland thực sự đang tăng cao.

Khi chó con bị truyền nhiễm, do ăn ốc sên và ếch con. Đôi khi có thể do không cẩn thận ăn nhầm những đồ chơi ở gần đó hoặc những con ốc sên nhỏ trên lông chó con.

Những ấu trùng giun phổi tăng trưởng trong cơ thể chó con, ngay sau khi phát triển thành trưởng thành sẽ di chuyển trong cơ thể chó, để tìm đến tim hoặc huyết quản để sống. Dẫn đến các vấn đề tim mạch, vấn đề hô hấp và bệnh phổi ở chó con, những trường hợp không nghiêm trọng, có rất nhiều chó con không có bất cứ triệu chứng nào.

Thường sau khoảng 28 ngày, thì những con giun phổi này sẽ bắt đầu đẻ trứng, vấn đề đã trở nên nghiêm trọng. Lúc này nội tạng sẽ xuất hiện tình trạng chảy máu bên trong kể cả ở tất cả các bộ phận của cơ thể: gan, phổi, mắt, ruột và tủy. Nếu như không được điều trị tình hình nghiêm trọng sẽ gây ra tử vong.

Chó con khi bị bệnh giun phổi có những triệu chứng gì

Sẽ rất khó khăn trong việc chẩn đoán giun phổi, vì có những lúc triệu chứng khác nhau, triệu chứng chủ yếu bao gồm:

Bị Ho

Chó Khó thở

Cún Không thích di chuyển

Chó con sau khi bị tổn thương da, thường sẽ chảy máu trong một thời gian dài hơn bình thường.

Chó bị bầm tím bất thường, hay có cục máu đông

Phòng tránh bệnh giun phổi thế nào?

Chủ của cún cần được tư vấn thú y thường xuyên để ngăn chặn bệnh từ sớm, đặc biệt là nếu bạn có kế hoạch mang chó đi du lịch du lịch.

Nếu như ở trong vườn nhà bạn hoặc gần công viên nhìn thấy ốc sên, thì những khi dắt chó đi dạo tuyệt đối phải chú ý, thấy chó con có bất cứ biểu hiện không thoải mái, cần phải nhanh chóng đưa nó đến bệnh viện kiểm tra.

Bệnh Giun Đũa Ở Chó – Bệnh Viện Thú Y – Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam

5.7.1. Lịch sử phát hiện bệnh

Giun đũa Toxocara canis được tìm thấy ở chó từ thế kỷ 18, nhưng phải đến năm 1908 khi Nutall và Strickland C. tìm thấy 17 trong số 24 chó ở Cambridge (Anh) bị nhiễm loại ký sinh trùng này thì giun đũa T. canis mới bắt đầu được nghiên cứu nhiều.

Trường hợp người bị nhiễm T. canis được mô tả đầu tiên bởi Wilder H.C. vào năm 1950. Đến năm 1958, Sprent J.F.A. đã nghiên cứu vòng đời và cơ chế truyền bệnh của giun đũa T. canis.

Ở Việt Nam, trước Cách mạng tháng 8, Houdemer (1938) đã tìm thấy giun đũa ở chó Bắc Bộ. Năm 1975, Capdevielle P. và cs. đã báo cáo về một trường hợp cổ chướng có tăng bạch cầu ái toan ở một phụ nữ lớn tuổi tại Thành phố Hồ Chí Minh. Bệnh nhân sống ở nông thôn, có tiền sử vàng da, uống rượu và nghiện hút thuốc lá nặng. Các tác giả nghĩ đến nguyên nhân ký sinh trùng nhưng không biết loài nào, điều trị với Thiabendazole thì triệu chứng bệnh giảm dần.

Cho đến nay, bệnh do giun đũa T. canis gây ra ở chó được quan tâm nghiên cứu nhiều vì tỷ lệ chó nhiễm bệnh ngày càng cao, ở giai đoạn ấu trùng có khả năng nhiễm và gây bệnh cho người.

5.7.2. Tác nhân gây bệnh

Bệnh do hai loài giun tròn là Toxocara canis, thuộc họ Anisakidae và Toxascaris leonina, thuộc họ Ascaridae gây nên. Giun ký sinh ở ruột non, dạ dày của chó, cáo, chó sói và nhiều loài ăn thịt khác.

Hình thái, cấu tạo

– Loài T. canis: giun màu vàng nhạt, đầu hơi cong về phía bụng; có cánh đầu rộng, giữa thực quản và ruột có dạ dày nhỏ (đây là đặc điểm của họ Anisakidae). Giun đực dài 5 – 10 cm, đuôi cong hơi tù, có cánh đuôi và một đôi gai giao hợp dài bằng nhau (chiều dài 0,75 – 0,85 mm). Giun cái dài 9 – 18 cm, đuôi thẳng.

Trứng giun hơi tròn, vỏ trứng lỗ chỗ như tổ ong, vỏ dày, màu vàng, kích thước 0,08 – 0,085 x 0,064 – 0,072 mm.

– Loài T. leonina: giun có cơ thể màu vàng nhạt, cánh đầu rất hẹp, hơi cong về phía lưng. Giun đực dài 4 – 6 cm, đuôi nhọn không tù như T. canis, không có cánh đuôi, có một đôi gai giao hợp dài bằng nhau (dài 1,2 – 1,5 mm). Giun cái dài 6,5 – 10 cm. Trứng giun hơi tròn, vỏ ngoài nhẵn, đường kính 0,075 – 0,085 mm.

Vòng đời

– Đối với loài Toxocara canis: giun cái sau khi thụ tinh đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoài, sau 5 ngày thành trứng có ấu trùng có sức gây bệnh. Khi chó nuốt phải trứng này, tới ruột non ấu trùng nở ra, theo máu về gan, khí quản, vào miệng rồi trở lại ruột non phát triển thành giun trưởng thành. Một số ấu trùng sau khi vào phổi không vào phế quản mà vẫn theo đại tuần hoàn về các tổ chức làm thành kén, ấu trùng ở trong kén không chết và cũng không phát triển. Nếu chó ăn phải kén có ấu trùng thì vào ruột, ấu trùng tiếp tục phát triển thành giun trưởng thành. Ấu trùng có thể truyền từ mẹ vào thai (bằng chứng là có những trường hợp chó sơ sinh đã có giun đũa trưởng thành ký sinh).

– Đối với loài Toxascaris leonina: trứng giun theo phân chó ra ngoài, gặp nhiệt độ và ẩm độ thích hợp, sau 3 ngày phát triển thành trứng có sức gây bệnh. Chó nuốt phải trứng, trứng nở thành ấu trùng, sau 3 – 4 tuần phát triển thành giun trưởng thành.

3. Dịch tễ học

Loài mắc bệnh

      Bệnh thấy ở chó, cáo, chó sói và nhiều động vật ăn thịt khác. Chó ở mọi lứa tuổi đều có thể bị nhiễm giun đũa, song loài T. canis ký sinh nhiều hơn ở chó con, còn T. leonina ký sinh nhiều hơn ở chó 6 tháng tuổi trở lên. Tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó giảm dần theo tuổi (chó sơ sinh đến 4 tháng tuổi nhiễm 53%, 6 tháng – 1 năm tuổi nhiễm 25%, trưởng thành nhiễm 12%).

Chó ngoại và chó cái nhiễm giun đũa cao (chó đực nhiễm 17%, chó cái nhiễm 28%; chó ngoại nhiễm 40,6%, chó nội nhiễm 28,1%).

Nghiên cứu tình hình nhiễm giun tròn ở chó nuôi tại Hà Nội, Hoàng Minh Đức và Nguyễn Thị Kim Lan (2008) cho biết, chó nhiễm giun đũa T. canis là 20%, T. leonina là 24,26%, tỷ lệ nhiễm giảm theo tuổi chó (chó dưới 3 tháng tuổi nhiễm T. canis 40,86%, 3 – 8 tháng tuổi nhiễm 25,89%, 8 – 12 tháng tuổi nhiễm 12,39%; đối với loài T. leonina: chó dưới 3 tháng tuổi không thấy nhiễm, chó 3 – 8 tháng tuổi nhiễm 33,9%, 8 – 12 tháng nhiễm 42,1%, trên 12 tháng nhiễm 19,2%).

Nghiên cứu tình hình nhiễm giun tròn đường tiêu hóa của chó tại xã Sơn Nga, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ của Dương Đức Hiếu và cs (2014) cho biết, chó nhiễm Toxocara spp. là 66,67%

Nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2015) cho biết, chó ở Phú Thọ nhiễm T. canis qua mổ khám là 28,57%; cường độ nhiễm 1 – 6 giun/chó.

Chất chứa mầm bệnh

            Trứng giun đũa có trong phân của chó và những động vật mắc bệnh khác. Từ phân, trứng có thể phát tán và được lưu trữ trong đất, nước và lẫn vào thức ăn, nước uống của chó, người…

Phương thức truyền lây

Chó có thể nhiễm giun đũa T. canis qua 3 đường: qua thức ăn, nước uống; ăn thịt chó còn sống có kén mang ấu trùng; qua bào thai. Người nhiễm chủ yếu do nuốt phải trứng giun đũa chó qua thức ăn, nước uống, hoặc qua tiếp xúc với chó (bồng bế chó)

Trứng giun đũa có sức đề kháng mạnh, có thể phát triển được trong các dung dịch clorua thuỷ ngân, sunfat đồng nồng độ cao.

Cơ chế sinh bệnh

Ở chó

Ấu trùng di hành làm tổn thương một số cơ quan, tổ chức (gan, phổi, mạch máu…). Nếu nhiều giun trưởng thành ký sinh thì gây tắc ruột, có khi thủng ruột. Giun chui vào ống dẫn mật làm tắc ống dẫn mật, chó có thể chết.

Ấu trùng giun còn mang vi khuẩn đến các cơ quan, tổ chức gây viêm.

Ở người

Giun đũa Toxocara spp. trưởng thành ký sinh ở chó, sau khi thụ tinh đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoài, gặp điều kiện thuận lợi phát triển thành trứng có sức gây bệnh. Người có thể nhiễm ấu trùng giun đũa Toxocara spp. do ăn phải thức ăn, nước uống có lẫn trứng có sức gây bệnh hoặc do dùng tay bị ô nhiễm trứng có sức gây bệnh cầm thức ăn ăn.

Vào cơ thể người, trứng Toxocara spp. giải phóng ra ấu trùng, ấu trùng này di hành đến mắt hoặc các cơ quan khác trong cơ thể (như não, mắt, các cơ quan nội tạng) và gây tác hại cho cơ thể người.

4. Bệnh ở chó

 Triệu chứng

Con vật gầy còm, chậm lớn, thiếu máu ăn kém, nôn mửa, táo bón, sau ỉa chảy. Bụng chướng to, lông xù. Có khi có triệu chứng giống thần kinh như động kinh hay bệnh dại.

Bệnh tích

            Xác chết gầy, lông xung quanh hậu môn dính phân bẩn. Mổ khám thấy nhiều giun đũa ở ruột non, có thể thấy giun tập trung thành búi, gây tắc ruột. Ruột non viêm cata, có nhiều điểm xuất huyết.

Chẩn đoán bệnh

Đối với chó còn sống: xét nghiệm phân bằng phương pháp phù nổi tìm trứng giun đũa. Phân biệt trứng của hai loài giun trên, đồng thời theo dõi triệu chứng lâm sàng của con vật.

Đối với chó đã chết: mổ khám tìm giun đũa ở ruột non và dạ dày chó.

5. Bệnh ở người

Cortés N. N. và cs. (2015) đã kiểm tra 183 mẫu huyết thanh của trẻ em 3 – 16 tuổi tại Amecameca và Chalco thuộc México. Kết quả cho thấy, có 22 mẫu dương tính với T. canis, chiếm tỷ lệ 12,02%. Trong đó có 6,50% số bé trai và 5,4% số bé gái dương tính với bệnh do giun T. canis gây ra.

Borecka A. và Kłapeć T. (2015) cho biết: Tại Ba Lan, giai đoạn từ năm 1994 – 2005, kiểm tra 18.367 mẫu huyết thanh của người nghi ngờ bị nhiễm Toxocara, kết quả cho thấy tỷ lệ mẫu huyết thanh dương tính biến động qua các năm nghiên cứu từ 1,8 – 76%. Trong giai đoạn từ năm 1978 – 2009, đã ghi nhận 1.022 trường hợp thể hiện các triệu chứng lâm sàng của bệnh.

Antolová D. và cs. (2015) đã kiểm tra 429 mẫu huyết thanh người dân tộc Roma sống thành quần thể riêng thuộc Đông Slovakia, thấy 22,15 số mẫu dương tính với T. canis. Triệu chứng của những người bị bệnh bao gồm: nhức đầu, đau cơ bắp, tiêu chảy và có các triệu chứng giống bệnh cúm (ho, sốt bất thường khó thở…).

Triệu chứng

Người nhiễm ấu trùng giun đũa chó có biểu hiện lâm sàng rất đa dạng, khó xác định, phụ thuộc nhiều vào số lượng, vị trí ký sinh của ấu trùng và đáp ứng của cơ thể người bị nhiễm. Gồm có hai nhóm triệu chứng chính:

– Hội chứng ấu trùng di chuyển nội tạng, có các triệu chứng chung như: mệt mỏi, ăn kém, thể trạng yếu, sốt bất thường và có dạng dị ứng (nổi mẩn ngứa, nổi ban, mề đay…). Tuy nhiên, các biểu hiện lâm sàng cho dù là điển hình, cũng rất dễ nhầm với các bệnh khác.

– Bệnh ấu trùng giun đũa chó ở mắt: bệnh có triệu chứng giảm thị lực, viêm mắt hoặc gây tác động có hại đến võng mạc. Thông thường thì mắt nào có ấu trùng ký sinh mới thể hiện triệu chứng của bệnh.

Ngoài ra, ít gặp nhóm thứ ba là bệnh “Toxocara spp. biến đổi” (Convert Toxocariosis). Trường hợp này thấy ở những bệnh nhân có huyết thanh chẩn đoán giun đũa chó dương tính kết hợp với một số triệu chứng hay dấu hiệu lâm sàng có tính hệ thống và khu trú ở một số vùng nhất định của cơ thể nhưbụng (đau bụng), thần kinh (khiếm khuyết về tâm thần, động kinh), phổi (suyễn), da (dị ứng kéo dài).

Theo Iddawela D. R. và cs. (2003), ấu trùng giun đũa Toxocara canis ký sinh ở người gây ra tình trạng đau bụng (45%), ho (30%), đau mình mẩy (23%), nổi mề đay (20%).

giun ở dạ dày của chó. Niêm mạc ruột non viêm cata, có nhiều điểm tụ huyết và xuất huyết.

Chẩn đoán

Do ấu trùng giunToxocara spp. không phát triển được thành dạng trưởng thành và không có khả năng sinh sản ở người, nên khi xét nghiệm phân người sẽ không chẩn đoán được bệnh. Chỉ có thể chẩn đoán bệnh ấu trùng giun đũa chó ở người bằng phương pháp huyết thanh học để phát hiện kháng thể kháng Toxocara spp. trong máu người (có thể sử dụng kỹ thuật ELISA để chẩn đoán bệnh ở người)..

6. Phòng, trị bệnh

8.1. Tẩy giun đũa cho chó

Có thể tẩy giun đũa cho chó bằng một trong các thuốc sau:

Piperazin hydrat: liều 100 – 150 mg/kg TT. Trộn thức ăn cho chó ăn.

Piperazin citrat: liều 150 mg/kg TT. Trộn thức ăn cho chó ăn.

Piperazin adipate: liều 100 mg/kg TT. Trộn thức ăn cho chó ăn.

Levamisol: liều 15 – 20 mg/kg TT. Trộn thức ăn cho chó ăn.

                   Hiệu quả tẩy rất cao và an toàn.

Mebendazol: liều 90 – 100 mg/kg TT. Trộn thức ăn cho chó ăn.

                  Thuốc an toàn và hiệu quả cao.

Hoàng Minh Đức và Nguyễn Thị Kim Lan (2008) đã sử dụng thuốc levamisol, liều 15 mg/kg TT để tẩy giun đũa cho chó, kết quả cho thấy, thuốc có hiệu lực tẩy đạt 86,66%, trong khi dùng thuốc sanpet (liều 25 mg/kg TT), hiệu lực tẩy giun đũa và các giun tròn khác đạt 93,33%.

8.2. Điều trị bệnh ấu trùng giun đũa chó cho người

Điều trị nội khoa: Phần lớn những trường hợp mắc bệnh ấu trùng giun đũa chó ở người mức độ nhẹ có triệu chứng không rõ ràng, vì vậy bệnh nhân thường không đến khám và diều trị tại các cơ sở y tế. Sau đó, bệnh có thể tự khỏi sau vài tuần hoặc vài tháng. Vấn đề điều trị bằng thuốc chống ký sinh trùng thường được áp dụng đối với những trường hợp người mắc bệnh nặng như tổn thương ở phổi, não, tim, hoặc ngứa ngáy, nổi mề đay nặng Có thể sử dụng một trong những thuốc sau:

 Albendazole: liều 10 – 15 mg/kgTT/ngày x 15 – 21 ngày.

 Mebendazole: liều 100 mg x 2 lần/ngày x 3 ngày (thuốc này không khuyến cáo dùng cho trẻ dưới 2 tuổi).

 Thiabendazole: 50 mg/kgTT/ngày, chia 2 lần x 7 ngày, không vượt quá 3 gam/ngày.

 Dietylcarbamazine: 6 mg/kgTT/ngày, chia 3 lần x 10 ngày (thuốc này không khuyến cáo dùng cho trẻ em).

 Điều trị ngoại khoa: Biện pháp điều trị ngoại khoa được đặt ra đối với những trường hợp bệnh nhân nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở mắt.  

Trần Trọng Dương (2013) đã sử dụngalbendazoleđiều trị bệnh ấu trùng giun đũa chó ở người tại 2 xã thuộc huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định, với liều 10 mg/kg/ngày ở trẻ em (5 – 15 tuổi) và 15 mg/kgTT/ngày ở người lớn (trên 15 tuổi) trong 21 ngày. Kết quả sauđiều trị 1 tháng cho thấy, các triệu chứng lâm sàng đều giảm đi rõ rệt: mẩn ngứa (37,3% – 4%), nổi mề đay (4,7% – 0,8%), đau mình mẩy (19% – 0), đau bụng (6,4% – 1,6%), đau đầu (8,7% – 0), sốt (4% – 0), rối loạn tiêu hóa (6,4% – 0,8%), các triệu chứng khác chiếm 13,5% – 1,6%; các xét nghiệm cận lâm sàng cũng cho thấy 96,0% số bệnh nhân có bạch cầu ái toan giảm đến mức giới hạn bình thường.

8.3. Phòng và kiểm soát bệnh

            Tăng cường quản lý đàn chó: không thả rông chó; nuôi chó nhốt trong cũi (chuồng), vệ sinh thức ăn và nước uống cho chó; định kỳ cọ rửa, tiêu độc cũi và nền chuồng.

            Để phòng nhiễm ấu trùng giun đũa chó, người cần thực hiện tốt việc ăn chín uống sôi, không tiếp xúc trực tiếp với chó, không bề bồng chó.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Thị Quyên, Nguyễn Thị Ngân, Bùi Chí Vinh, Bùi Văn Dũng (2015). “Tình hình nhiễm giun tròn đường tiêu hóa ở chó tại thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ”, Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y, tập XXII. Số 4 – 2015, tr 68 – 75.

Dương Đức Hiếu, Bùi Khánh Linh, Sử Thanh Long (2014), “Bước đầu nghiên cứu tình hình nhiễm giun tròn đường tiêu hóa của chó tại xã Sơn Nga, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ”, Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y, tập XVIII. Số 8 – 2014.

Lê Văn Đoan, Võ Hữu Hội (2008), “Nhân 02 trường hợp nhiễm ấu trùng giun đũa chó nội tạng được chẩn đoán và điều trị tại Khoa Nhi BV Đà Nẵng”, Nguồn: http://khoanhidanang.com.vn/detail.php?dm=1&id=5.

Huỳnh Hồng Quang (2008), Toxocara canis và Toxocara cati một bệnh gây ra do ký sinh trùng, Nguồn: http://news.bacsi.com/kien-thuc/chuyen-khoa/toxocara-canis-va-toxocara-cati-mot-benh-gay-ra-do-ky-sinh-trung.

Antolová D., Jarčuška P., Janičko M., Madarasová-Gecková A., Halánová M., Čisláková L., Kalinová Z. Reiterová K., Škutová M., Pella D., Mareková M. (2015), “Seroprevalence of human Toxocara infections in the Roma and non-Roma populations of Eastern Slovakia: a cross-sectional study”, Epidemiol Infect, 143(10), pp. 2249 – 2258.

Borecka A., Kłapeć T. (2015), “Epidemiology of human toxocariasis in Poland – A review of cases 1978 – 2009”, Ann Agric Environ Med., 22(1), pp. 28 – 31.

Cortés N. N., Núñez C. R., Guiliana B. G., García P. A., Cárdenas R. H. (2015), “Presence of anti-Toxocara canis antibodies and risk factors in children from the Amecameca and Chalco regions of México”, BMC Pediatr, 15 (65).

Despommier D. (2003). “Toxocariasis: clinical aspects, epidemiology, medical ecology, and molecular aspects”. Clin Microbiol Rev, 16 (2), pp. 265 – 272.

Holland, Celia and Smith H.V. (2006) Toxocara: The Enigmatic D. R., Kumarasiri P. V., de Wijesundera M. S. (2003), “A seroepidemiological study of toxocariasis and risk factors for infection in children in Sri Lanka”, Southeast Asian J Trop Med Public Health, Vol. 34, No. 1, pp. 7 – 15.

Marty, Aileen (2000). Toxocariasis Chapter 27, pages 411- 421 in Meyers WM, Neafie RC, Marty A. M., Wear D. J. (Eds) Pathology of Infectious Diseases Volume I: Helminthiases. Armed Forces Institute of Pathology, Washington DC.;http://www.afip.org/cgi-bin/description.cgi?item=FS28.

Bệnh Giun Đũa Trên Chó Mèo Toxocara

Bệnh giun đũa trên chó mèo có 2 loại:

Toxocara canis gây bệnh ở chó con

Toxascaris leonina gây bệnh ở chó 6 tháng tuổi trở lên.

Nuốt phát trứng giun đã hình thành ấu trùng gây nhiễm;

Ăn phải thức ăn có kén mang ấu trùng;

Nhiễm từ mẹ qua nhau thai.

Ấu trùng giun đũa chó mèo thoát vỏ trúng

Triệu chứng bệnh giun đũa chó mèo Bệnh giun đũa chó mèo gây tác hại chủ yếu ở chó từ sơ sinh đến 4 tháng tuổi. Trong quá trình di hành của ấu trùng gây ra tổn thương cho nhiều cơ quan, sự xâm nhập của các vi sinh vật gây viêm các phủ tạng. Con vật gầy còm, lông xơ xác, kém ăn, suy nhược, thiếu máu. Bụng phình to, căng tròn, ruột bị co thắt áp sát vào thành bụng, đẩy thành bụng gồ lên, ấn tay vào đó có cảm giác cứng chặt. Những biểu hiện: nôn, tiêu chảy, rên rỉ do đau bụng, có khi nôn ra giun, phân thải ra màu xám trắng, thối khắm, đôi khi lẫn cả giun. Độc tố giun đũa có thể tác động đến thần kinh trung ương gây run rẩy, trầm cảm, co giật nhẹ. Khi bội nhiễm giun đũa gây ra tắc ruột, thủng ruột, tắc ống dẫn mật, thậm chí có thể làm chết vật nuôi. Khi mổ khám thấy ruột non viêm cata và loét. Chó trưởng thành ít bị mắc giun đũa hơn, khi bị nhiễm giun đũa không biểu hiện rõ nét, chỉ gầy còm, lông xơ xác, đôi khi nôn khan, nhưng chó mang và reo rắc mầm bệnh.

Chẩn đoán giun Toxocara Chẩn đoán bệnh giun đũa chó mèo căn cứ và lứa tuổi động vật mắc bệnh, triệu chứng, tìm giun trưởng thành trong phân, xét nghiệm phân tìm trứng bằng phương pháp Fulleborn hoặc Darling.

Biện pháp phòng bệnh Không thả rông chó, nếu thả chó phải đeo rọ mõm tránh cho ăn bậy. Định kỳ vệ sinh chuồng trại, dụng cụ chăn nuôi. Thu dọn phân – rác thường xuyên, xử lý theo yêu cầu vệ sinh thú y để diệt mầm bệnh. Định kỳ kiểm tra phân chó nhằm phát hiện những cá thể mắc bệnh. Cách ly và điều trị triệt để chó mắc bệnh. Định kỳ tẩy giun cho chó, nhất là những chó mẹ để phòng lây nhiễm cho chó con.

Cách điều trị bệnh giun đũa chó mèo

Sử dụng cá thuốc tẩy giun như: Piperazin, ivermectin, Menbendazol, Tetramison… dùng theo khuyến cáo nhà sản xuất. Với Tetramison 10mg/kg thể trọng, cho uống. Nếu tiêm sử dụng liều 7.5mg/kg thể trọng. Cho chó, mèo uống 1 lần sau khi ăn, lưu ý: chó mèo đang có thai ở giai đoạn cuối không được dùng thuốc này, vì thuốc kích thích thần kinh phó giao cảm và cơ trơn. Trong khi tẩy giun nên kết hợp dùng thuốc bổ trợ: vitamin C, vitamin B1, B-complex, truyền dung dịch nước muối sinh lý và glucose 5%.Bệnh giun đũa chó mèo lây sang người.

Bởi chó, mèo là vật nuôi gần gũi với con người, đặc biệt là chó mèo cảnh thường xuyên được vuốt ve, ôm ấp. Do đó, nguy cơ lây nhiễm giun đũa từ chó mèo sang người là rất cao. Trên thực tế cho thấy, bệnh giun đũa chó mèo có lây sang người, đặc biệt là trẻ em – đối tượng dễ nhiễm bệnh nhất do đùa nghịch với đất cát có chữa trứng giun trong phân chó.

Khi giun đũa chó mèo đi vào cơ thể con người, chúng sẽ cư trú trong đó khoảng vài tháng cho đến vài năm gây tổn thương cơ quan nội tạng. Người bị nhiễm bệnh sẽ cảm thấy ngứa ngáy, da tái lại, điều trị không dứt hẳn kèm theo một số triệu chứng như: gan to, sốt cao, đau ngực, đau bụng, khó tiêu, đi ngoài ra giun, giảm thị lực. Các triệu chứng này có thể kéo dài vài tháng, vài năm.

Bệnh giun đũa chó có nguy hiểm không còn phụ thuộc vào số lượng ấu trùng bên trong gan, phổi, hệ thần kinh trung ương và mắt là bao nhiêu. Trong đó, bộ phận nội tạng và mắt dễ bị ảnh hưởng nhiều nhất.

Do đó, để phòng ngừa và tiêu diệt giun đũa, chúng ta cần phải tẩy giun định kỳ 6 tháng một lần, ăn chín uống sôi, giữ cho trẻ nhỏ chơi ở những nơi sạch sẽ.

Theo Happyvet

Kết nối với chúng tôi!

Đăng ký kênh YOUTUBE HỘI CHĂN NUÔI

Cập nhật thông tin chi tiết về Bệnh Giun Móc Ở Chó trên website Dhrhm.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!