Xu Hướng 9/2023 # Bệnh Giun Đũa Chó, Mèo Và Những Điều Cần Biết # Top 11 Xem Nhiều | Dhrhm.edu.vn

Xu Hướng 9/2023 # Bệnh Giun Đũa Chó, Mèo Và Những Điều Cần Biết # Top 11 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Bệnh Giun Đũa Chó, Mèo Và Những Điều Cần Biết được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Dhrhm.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

1. BỆNH GIUN ĐŨA CHÓ, MÈO LÀ GÌ?Bệnh do ký sinh trùng giun đũa chó, mèo, tên khoa học là Toxocara sp, là một loại bệnh động vật ký sinh (zoonosis), tức là bệnh từ thú có xương sống lây truyền sang người.Các bệnh do giun Toxocara canis (ở chó) hoặc Toxocara cati (ở mèo) đều có chung những đặc điểm lâm sàng, chẩn đoán và điều trị giống nhau nên thường được gọi chung là “Bệnh giun đũa chó, mèo hoặc Toxocara sp”.

Ngày nay do điều kiện sống cũng như sinh hoạt trong xã hội có rất nhiều gia đình nuôi chó, mèo nên việc tiếp xúc thường xuyên với những động vật nuôi trong nhà này dẫn đến nguy cơ nhiễm bệnh rất cao. Tuy nhiên do thói quen sinh hoạt của chó nên khả năng nhiễm Toxocara canis (từ chó) cao hơn Toxocara cati (từ mèo).

Vì bệnh do Toxocara sp gây nên là bệnh có vật chủ chính để ký sinh là động vật có xương sống mà thường là chó, mèo, nên khi Toxocara sp lạc vật chủ sang người chúng không bao giờ phát triển thành giun trưởng thành. Chính vì không có giun trưởng thành nên việc tìm trứng giun để chẩn đoán bệnh này ở người là điều không thể mà phải dựa vào xét nghiệm máu chẩn đoán. Việc gây bệnh của ký sinh trùng này ở người lại xảy ra ở mọi cơ quan nơi chúng di chuyển đến và ký sinh tại đó như da, cơ, gan, thận, mắt, não .. vv … và có thể gây những tổn thương với những triệu chứng đa dạng và hậu quả khác nhau.

2. CÁCH LÂY NHIỄM VÀ TRIỆU CHỨNG THƯỜNG GẶP KHI BỊ BỆNH!

Mặc dù cơ thể người chỉ là ký chủ ngẫu nhiên của Toxocara sp nhưng việc lây nhiễm cũng giống như ở vật ký chủ chính là do nuốt phải trứng có phôi của Toxocara sp, sau đó ấu trùng thoát khỏi vỏ trứng rồi xâm nhập qua thành ruột theo đường máu chu du khắp cơ thể người như gan, thận, phổi ..vv.. và gây bệnh cho con người tại những nơi chúng đến.

Các triệu chứng của bệnh gây ra bởi Toxocara sp tùy thuộc rất nhiều yếu tố như: số lượng ấu trùng nuốt vào cơ thể, thời gian bị nhiễm, nơi định vị cư trú của ký sinh trùng cũng như tùy thuộc vào phản ứng miễn dịch với ký sinh trùng của những ký chủ khác nhau cùng nhiều yếu tố khác.

Tuy nhiên nếu Toxocara sp gây bệnh ở nội tạng sẽ có một số triệu chứng sau:

– Bệnh nội tạng, gặp ở trẻ nhỏ 1 – 4 tuổi nhiều hơn ở người lớn với một hoặc những dấu hiệu: khởi phát từ từ, sốt nhẹ thoáng qua, ăn ít, gầy yếu, tiêu chảy, buồn nôn, đau người, mệt mỏi, khó thở nhẹ hoặc ho có đàm chúng tôi Các dấu hiệu trên có thể tự hết sau nhiều tuần (khi ấu trùng chết).

– Bệnh ở người lớn đôi khi không có triệu chứng hoặc có các dấu hiệu mờ nhạt như: sốt nhẹ, mệt mỏi, mẩn ngứa, khó thở dạngsuyễn và viêm phổi, giảm thị lực 1 mắt, hoặc các biểu hiện bệnh đau ở vùng gan với có thể gan, lách to, nổi hạch hoặc ở bất cứ cơ quan nào bị xâm nhiễm.

– Ngoài ra bệnh còn có thể biểu hiện ở khớp, cơ, da, tim hoặc tổn thương thần kinh trung ương do ấu trùng xâm nhiễm vào não gây viêm màng não có thể có cơn động kinh hoặc với các triệu chứng kèm theo đặc trưng của cơ quan bị bệnh khác.

3. LÀM THẾ NÀO ĐỂ BIẾT BỊ NHIỄM GIUN ĐŨA CHÓ, MÈO?

Bệnh giun đũa chó, mèo hiện nay được coi là bệnh khá phổ biến do các yếu tố dịch tễ và các triệu chứng đã được mô tả ở phần trên, việc phát hiện bệnh là phải đến các cơ sở y tế có đủ điều kiện để xét nghiệm chẩn đoán. Khi có các triệu chứng gợi ý cần đến khám, chẩn đoán và điều trị theo hướng dẫn của các bác sỹ chuyên khoa.

Trong điều kiện phát triển kinh tế, xã hội, khoa học như hiện nay của Việt Nam cũng như trên thế giới thì việc chẩn đoán, điều trị bệnh ký sinh trùng nói chung và giun, sán nói riêng không còn là vấn đề khó khăn. Tại Việt Nam có rất nhiều cơ sở khám chữa bệnh có thể làm được điều đó, tuy nhiên hàng đầu tại Việt Nam trong lĩnh vực ký sinh trùng phải kể đến các Viện: Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng Trung ương (đóng tại thủ đô Hà Nội), Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng Quy Nhơn (đóng tại thành phố Quy Nhơn) và Viện sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng thành phố Hồ Chí Minh (phụ trách 20 tình thành khu vực Nam Bộ – Lâm Đồng, đóng tại TP Hồ Chí Minh).

Những Điều Cần Biết Về Bệnh Giun Đũa Chó Mèo

Bệnh giun đũa chó mèo (Toxocariasis) do tác nhân gây bệnh là Toxocara canis hay Toxocara cati, một loài giun tròn thường được gọi là giun đũa của chó, mèo. Ấu trùng của loài giun này gây tổn thương cho cơ thể người khi chúng xâm lấn vào các cơ quan như: gan, phổi, hệ thần kinh trung ương, mắt…

BS CKI Phạm Thị Thanh Hằng, Khoa Khám bệnh, Bệnh viện Nhân dân 115

Các giun đũa chó mèo này sẽ đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoài môi trường và sau 1-2 tuần lễ các trứng này sẽ hoá phôi (giai đoạn có thể gây bệnh cho người nếu nuốt phải trứng) , tiếp theo các ấu trùng giun đi xuyên qua thành ruột và theo đường máu di chuyển đến gan, phổi, hệ thần kinh trung ương (nơi các ấu trùng có thể sống sót trong cơ thể người trong nhiều tháng và sau đó bị phản ứng viêm của cơ thể tiêu diệt hoặc khiến chúng ngưng phát triển ).

Mức độ tổn thương của cơ thể cùng với các triệu chứng tùy thuộc vào số lượng ấu trùng cũng như cơ quan mà chúng xâm lấn: gan, phổi, hệ thần kinh trung ương, mắt…

Các thể lâm sàng của bệnh giun đũa chó, mèo

Thể ấu trùng di chuyển nội tạng (visceral larva migrans – VLM) , chủ yếu gặp ở trẻ < 5 tuổi với các triệu chứng: sốt, gan to và bị hoại tử, lách to, triệu chứng hô hấp giống như hen suyễn, bạch cầu ái toan tăng (tỷ lệ có thể đến 70%), các globulin miễn dịch IgM, IgG và IgE trong máu tăng. Ngoài ra có thể gặp viêm cơ tim, viêm thận, hệ thần kinh trung ương bị thương tổn.

Thể ấu trùng di chuyển ở mắt (ocular larva migrans – OLM) , gặp ở trẻ từ 5 đến 10 tuổi với triệu chứng giảm thị lực một bên mắt với đôi khi bị lé mắt. Mức độ suy giảm thị lực tuỳ thuộc vào vùng bị thương tổn (võng mạc, điểm vàng ).

Chu trình phát triển của giun đũa chó mèo

Chẩn đoán bệnh giun đũa chó, mèo là một việc khó vì

Triệu chứng trong các thể lâm sàng của bệnh giun đũa chó, mèo không đặc hiệu cho bệnh

Ấu trùng có thể phân tán rộng trong cơ thể và không phải lúc nào làm sinh thiết cũng phát hiện được ấu trùng .

Huyết thanh chẩn đoán ELISA sử dụng kháng nguyên ngoại tiết TES (Toxocara excretory-secretory antigen) có thể dương tính chéo với các trường hợp nhiễm giun, sán khác (giun đũa, giun móc, giun lươn, giun chỉ hệ bạch huyết, sán lá gan lớn, sán dây). Ngoài ra nhiều nơi sản xuất kit ELISA với những hiệu giá kháng thể hay mật độ quang (OD) khác nhau về ngưỡng dương tính, nên khó so sánh hay theo dõi diễn tiến bệnh .

Sự hiện diện của kháng thể chống Toxocara cũng không nói lên tình trạng đang mắc hay đã mắc bệnh vì các kháng thể chống Toxocara có thể tồn tại đến hơn 2,8 năm với kỹ thuật ELISA và đến hơn 5 năm với kỹ thuật Western-Blot.

Số lượng bạch cầu ái toan có thể bình thường hoặc có tăng nhưng với mức độ rất thay đổi.

Phòng bệnh giun đũa chó, mèo như thế nào?

Hàng tuần dọn dẹp sạch sẽ nơi chó, mèo nằm.

Phân chó, mèo phải được chôn lấp hay bỏ vào túi và vứt bỏ vào thùng rác.

Không cho trẻ chơi đùa nơi có chó, mèo thải phân.

Rửa tay với xà phòng sau khi chơi đùa với chó, mèo, sau khi nghịch đất cát và trước khi ăn uống.

Định kỳ tẩy giun cho chó, mèo.

Nguồn thông tin tổng hợp từ :Viện SR-Ký sinh trùng côn trùng TPHCM; Viện y tế công cộng; Cục y tế dự phòng; CDC (Centers for Disease Control and prevention).

BS CKI Phạm Thị Thanh Hằng

Khoa Khám bệnh, Bệnh viện Nhân dân 115

Những Điều Cần Biết Về Bệnh Giun Đũa Chó Mèo Toxocara

Bệnh giun đũa chó mèo hay còn được gọi là bệnh giun Toxocara. Bệnh do 2 loại giun đũa: Toxocara canis gây bệnh ở chó con và Toxascaris leonina gây bệnh ở chó 6 tháng tuổi trở lên.

Nguyên nhân gây bệnh giun đũa chó mèo

Nguyên nhân gây bệnh giun đũa chó mèo là do Toxocara canis và Toxascaris leonin gây ra.

Toxocara canis có màu vàng nhạt, đầu hơi cong về phía bụng, cánh đầu của nó rộng, có môi.

Trong cơ thể vật chủ, giun cái trưởng thành, sau khi giao phối thường xuyên đẻ trứng. Trứng giun được đào thải ra ngoài môi trường theo phân của ký chủ, chúng có sức đề kháng mạnh với các điều kiện tự nhiên, gặp điều kiện thích hợp ấu trùng gây nhiễm được hình thành sau 5 ngày.

Chó, mèo nuối phải các trứng này, tới ruột non, vỏ trứng bị phá hủy, ấu trùng được giải phóng.

Ấu trùng xuyên qua thành ruột, theo máu đi đến tim, gan, phổi, khí quản,… lên miệng rồi lại trở về ruột non phát triển thành dạng trưởng thành. Quá trình này được gọi là quá trình di hành của ấu trùng.

Một số ấu trùng, sau khi về phổi không đi lên miệng để trở về đường tiêu hóa mà chúng theo máu về các mô bào khác, tại đó chúng hình thành kén có khả năng gây nhiễm (chó ăn phải các kén này cũng bị mắc bệnh giun đũa).

Ấu trùng khi di hành có thể qua nhau thai để vào bào thai, chúng phát triển thành dạng trưởng thành trong ruột non của bào thai, vì thế mà chó con mới sinh ra đã có giun đũa.

Như vậy, chó nhiễm giun đũa Toxocara canis bằng 3 cách: nuốt phát trứng giun đã hình thành ấu trùng gây nhiễm; ăn phải thức ăn có kén mang ấu trùng; nhiễm từ mẹ qua nhau thai.

Toxascaris leonina có màu vàng nhạt, cánh đầu hẹp, phát triển trực tiếp

Trứng giun ra ngoài môi trường theo phân. Ở nhiệt độ 30oC, chỉ sau 3 ngày ấu trùng gây nhiễm đã được hình thành trong trứng. Ký chủ nuốt phải trứng đã có ấu trùng gây nhiễm, trong ruột non ấu trùng trưởng thành sau 3 – 4 tuần.

Chó ta nhiễm giun đũa cao (29%), chó con bị nhiễm nặng hơn (chó con từ sơ sinh đến 4 tháng tuổi mắc 52%).

Chó càng lớn tuổi, tỷ lệ nhiễm càng ít hơn, chó trên 1 năm tuổi chỉ nhiễm 12%. Chó nhập nội có tỷ lệ nhiễm giun đũa cao hơn chó nội.

Triệu chứng bệnh giun đũa chó mèo

Bệnh giun đũa chó mèo gây tác hại chủ yếu ở chó từ sơ sinh đến 4 tháng tuổi. Trong quá trình di hành của ấu trùng gây ra tổn thương cho nhiều cơ quan, sự xâm nhập của các vi sinh vật gây viêm các phủ tạng.

Con vật gầy còm, lông xơ xác, kém ăn, suy nhược, thiếu máu. Bụng phình to, căng tròn, ruột bị co thắt áp sát vào thành bụng, đẩy thành bụng gồ lên, ấn tay vào đó có cảm giác cứng chặt.

Những biểu hiện: nôn, tiêu chảy, rên rỉ do đau bụng, có khi nôn ra giun, phân thải ra màu xám trắng, thối khắm, đôi khi lẫn cả giun. Độc tố giun đũa có thể tác động đến thần kinh trung ương gây run rẩy, trầm cảm, co giật nhẹ.

Khi bội nhiễm giun đũa gây ra tắc ruột, thủng ruột, tắc ống dẫn mật, thậm chí có thể làm chết vật nuôi. Khi mổ khám thấy ruột non viêm cata và loét.

Chó trưởng thành ít bị mắc giun đũa hơn, khi bị nhiễm giun đũa không biểu hiện rõ nét, chỉ gầy còm, lông xơ xác, đôi khi nôn khan, nhưng chó mang và reo rắc mầm bệnh.

Chẩn đoán giun Toxocara

Chẩn đoán bệnh giun đũa chó mèo căn cứ và lứa tuổi động vật mắc bệnh, triệu chứng, tìm giun trưởng thành trong phân, xét nghiệm phân tìm trứng bằng phương pháp Fulleborn hoặc Darling.

Biện pháp phòng bệnh

Không thả rông chó, nếu thả chó phải đeo rọ mõm tránh cho ăn bậy.

Định kỳ vệ sinh chuồng trại, dụng cụ chăn nuôi. Thu dọn phân – rác thường xuyên, xử lý theo yêu cầu vệ sinh thú y để diệt mầm bệnh.

Định kỳ kiểm tra phân chó nhằm phát hiện những cá thể mắc bệnh. Cách ly và điều trị triệt để chó mắc bệnh.

Định kỳ tẩy giun cho chó, nhất là những chó mẹ để phòng lây nhiễm cho chó con.

Cách điều trị bệnh giun đũa chó mèo

Piperazin: 0.25g/kg thể trọng, trộn thuốc vào sữa, cháo cho ăn hoặc hòa nước cho uống. Chó nhỏ hòa thuốc với nước cháo cho vào bình bú, hay cho vào bơm tiêm nhựa bơm vào miệng từng con.

Han – lopatol 1 viên/5kg thể trọng cho uống 1 lần.

Hanmectin 0.1 – 0.2ml/1kg thể trọng tiêm dưới da 1 lần.

Menbenvet 80-100mg/kg thể trọng, chia ra 2 phần, uống trong 2 ngày, 1 ngày uống 1 lần.

Levamisol 15 – 20mg/kg thể trọng uống 1 lần.

Tetramison 10mg/kg thể trọng, cho uống. Nếu tiêm sử dụng liều 7.5mg/kg thể trọng. Cho chó, mèo uống 1 lần sau khi ăn, lưu ý: chó mèo đang có thai ở giai đoạn cuối không được dùng thuốc này, vì thuốc kích thích thần kinh phó giao cảm và cơ trơn.

Trong khi tẩy giun nên kết hợp dùng thuốc bổ trợ: vitamin C, vitamin B1, B-complex, truyền dung dịch nước muối sinh lý và glucose 5%.

Bệnh giun đũa chó mèo có lây không?

Bệnh giun đũa chó mèo có lây không? Bệnh giun đũa chó có nguy hiểm không? Đây chắc hẳn là các câu hỏi được nhiều người quan tâm. Bởi lẽ, chó mèo là “thú cưng” tiếp xúc với con người nhiều nhất.

Trên thực tế cho thấy, bệnh giun đũa chó mèo có lây sang người, đặc biệt là trẻ em – đối tượng dễ nhiễm bệnh nhất do đùa nghịch với đất cát có chữa trứng giun trong phân chó.

Khi giun đũa chó mèo đi vào cơ thể con người, chúng sẽ cư trú trong đó khoảng vài tháng cho đến vài năm gây tổn thương cơ quan nội tạng. Người bị nhiễm bệnh sẽ cảm thấy ngứa ngáy, da tái lại, điều trị không dứt hẳn kèm theo một số triệu chứng như: gan to, sốt cao, đau ngực, đau bụng, khó tiêu, đi ngoài ra giun, giảm thị lực. Các triệu chứng này có thể kéo dài vài tháng, vài năm.

Bệnh giun đũa chó có nguy hiểm không còn phụ thuộc vào số lượng ấu trùng bên trong gan, phổi, hệ thần kinh trung ương và mắt là bao nhiêu. Trong đó, bộ phận nội tạng và mắt dễ bị ảnh hưởng nhiều nhất.

Do đó, để phòng ngừa và tiêu diệt giun đũa, chúng ta cần phải tẩy giun định kỳ 6 tháng một lần, ăn chín uống sôi, giữ cho trẻ nhỏ chơi ở những nơi sạch sẽ.

Bệnh Giun Đũa Chó Mèo Và Những Dấu Hiệu Nhận Biết

  Tác giả: Bác sĩ. Lê Thị Hương Giang 

  Tham vấn y khoa: Bác sĩ. Nguyễn Ngọc Ánh   

Là loại giun tròn ký sinh trong ruột non của chó (Toxocara canis), mèo (Toxocara cati) Toxocara canis gặp ở 80% chó vùng nhiệt đới và 17-20% chó ở vùng ôn đới. Giun trưởng thành sống trong ruột non của chó con dưới 3-6 tháng tuổi; khi chó lớn, do cơ chế miễn dịch, giun trong ruột sẽ bị đẩy ra ngoài. Mỗi ngày giun đẻ khoảng 200.000 trứng, trứng giun có thể tồn tại nhiều tháng ở môi trường ngoại cảnh.

Ai có nguy cơ nhiễm bệnh giun đũa chó mèo?

Người nhiễm trứng thường là trẻ em và người lớn tiếp xúc với đất nhiễm ấu trùng giun đũa chó, người ăn rau sống, thịt tái sống, trẻ em ngậm mút ngón tay nhiễm ấu trùng, ở những người thường tiếp xúc với chó, mèo. Là nhưng đối tượng có nguy cơ cao nhiễm bệnh giun đũa chó

Dịch tễ học bệnh ấu trùng giun đũa chó mèo

Bệnh có ở khắp nơi, người lớn và trẻ nhỏ đều có thể nhiễm bệnh. Những người thường thường nuôi chó, mèo bị nhiễm cao hơn người không nuôi chó mèo… 

Bệnh giun đũa chó mèo gây bệnh chàm tribenhgiunsan.com.vn

Ở người lớn thường ít có biểu hiện triệu chứng, thỉnh thoảng sốt nhẹ, mệt, nổi mẫn đỏ, ngứa, khó thở dạng suyễn, thể lực, thị lực giảm, hay quên, làm việc mất tập trung, số ít có biểu hiện châm chích, nhột nhột dưới da.

Bệnh giun đũa chó mèo nguy hiểm không?

Bệnh giun đũa chó mèo hay còn gọi là bệnh sán chó, thường ít gây biến chứng nguy hiểm, tuy nhiên có nhiều trường hợp ghi nhận bệnh nhân có ngứa da dị ứng, tổn thương mắt, tổn thương nội tạng và não.

Dấu hiệu nhận biết bệnh giun đũa chó mèo?

Triệu chứng định hướng

– Người mệt mỏi hay quên, ngứa da dị ứng, khám và trị da liễu bớt ngứa, hết thuốc ngứa lại.

- Bạch cầu tăng, tỷ lệ bạch cầu ái toan tăng trên 7%

– Globulines nâng cao hơn bình thường 10 – 15 lần, nhất là IgE và IgG.

– Ở trẻ em, bệnh diễn biến từ từ,  đôi khi có sốt nhẹ, đau bụng thoáng qua, biếng ăn, gầy yếu, đi tả, buồn nôn, ói mửa, đau cơ và khớp, ho khạc ra đàm, khó thở dạng suyễn, thâm nhiễm phổi, da nổi dát đỏ hoặc mề đay, hồng ban đa dạng, phù Quinck; gan to, cứng, bề mặt nhẵn, không đau, đôi khi lách to.

Bệnh giun đũa chó mèo có thể di chuyển đến mắt tribenhgiunsan.com.vn

Chẩn đoán bệnh giun đũa chó mèo như thế nào?

– Xét nghiệm máu bằng kỹ thuật ELISA tại phòng khám chuyên khoa với kết quả chuẩn xác cao

– Ấu trùng làm tổ trong gan khi sinh thiết gan có thể thấy ấu trùng giun đũa chó mèo trong nhu mô gan giũa một vùng gan hoại tử, sung quanh là các tế bào giả thượng bì, tế bào khổng lồ.

Điều trị bệnh giun đũa chó mèo như thế nào?

Bệnh giun đũa chó mèo nên được khám và trị bệnh tại phòng khám chuyên khoa, vì tại phòng khám chuyên khoa có các bác sĩ chuyên ngành và máy móc phương tiện xét nghiệm chẩn đoán cần thiết để tìm ra bệnh và trị bệnh đúng thuốc đúng liều lượng.

Thời gian trị dứt bệnh giun đũa chó mèo 1 đến 3 tháng, mỗi tháng một liệu trình từ 7 đến 15 ngày. Bệnh nhân thường được khám lại sau một tháng để kiểm tra lại và điều chỉnh thuốc giúp, không nên để trên 6 tháng mới khám lại vì giun đũa chó có thể lờn thuốc và gây ra biến chứng nguy hiểm.

Các thuốc thường được sử dụng là

– Thiabendazole (Mintezol) 50mg/kg/ngày

– Albendazole (Zentel) 2 viên 200mg/ngày Corticoides hay thuốc kháng histamine nên sử dụng vào buổi chiều cho những trường hợp có dấu hiệu khó thở , viêm nặng… 

Phòng bệnh giun đũa chó mèo như thế nào?

– Tẩy giun định kỳ cho chó 6 tháng 1 lần

– Ăn chín uống sôi, rửa rau sạch dưới vòi nước, không ăn thịt tái sống

- Hạn chế cho trẻ chơi chơi với chó, nhất là chó con; rửa tay sạch sẽ cho trẻ khi chơi với chó, khi tay dính đất cát.

– Không nên thả rông chó mèo, phân chó cần đựng trong bịch bịt kín và thả vô thùng rác.

Tags: Bệnh sán chó, Triệu chứng sán chó, Xét nghiệm sán chó, Giun đũa chó Toxocara

Bệnh Giun Đũa Chó, Mèo (Toxocariasis)

Bệnh giun đũa chó, mèo (Toxocara canis, Toxocara cati)

PGS.TS. Hà Hoàng Kiệm, BV 103, HVQY

1. Tác nhân gây bệnh

Ca bệnh giun đũa chó, mèo ở người được Wilder mô tả lần đầu năm 1950 khi phát hiện ấu trùng của giun tròn trong u hạt võng mạc (retinal granuloma). Sau đó Beaver và cs. (1952) lần đầu tiên dùng từ “ấu trùng di chuyển nội tạng” (visceral larva migrans) để báo cáo một loạt ca bệnh trẻ em có bạch cầu ái toan tăng cao trong máu đi kèm với bệnh nặng và kéo dài ở nhiều cơ quan, và khi làm sinh thiết phát hiện ấu trùng của Toxocara canis hay Toxocara cati. Trong nhiều năm bệnh giun đũa chó, mèo ở người được xem là bệnh ít gặp ở trẻ em, nhưng với những tiến bộ trong huyết thanh chẩn đoán những năm gần đây người ta thấy tỷ lệ người có phản ứng dương tính với kháng nguyên ngoại tiết của Toxocara sp. không phải là thấp, kể cả ở trẻ em lẫn người lớn và một số tác giả còn cho rằng đây là một bệnh giun sán phổ biến nhất ở các nước phát triển do thói quen nuôi chó mèo làm thú cưng.

Bệnh giun đũa chó, mèo ở người do một loài giun tròn Toxocara canis ở chó hay Toxocara cati ở mèo gây ra, thường được gọi là giun đũa của chó, mèo. Các giun này ký sinh ở trong ruột chó, mèo, giun đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoài môi trường và sau 1 – 2 tuần các trứng này sẽ hoá phôi. Đây là giai đoạn có thể gây bệnh cho người nếu nuốt phải trứng. Trẻ em là đối tượng dễ nhiễm bệnh nhất do thói quen nghịch đất cát là nơi phát tán trứng giun do đặc tính phóng uế bừa bãi của chó, mèo. Hiện nay nhiều gia đình nuôi chó cảnh hoặc chó Béc-giê, nên chúng tôi cũng đã khám và phát hiện giun đũa chó gây bệnh cho cả người lớn và các đại gia. Sau khi nuốt trứng vào cơ thể, các ấu trùng giun được giải phóng, đi xuyên qua thành ruột và theo đường máu di chuyển đến gan, phổi, hệ thần kinh trung ương. Tại đây, các ấu trùng có thể sống sót trong cơ thể người trong nhiều tháng và sau đó bị phản ứng viêm của cơ thể tiêu diệt hoặc khiến chúng ngưng phát triển, nhưng chỉ sau khi các ấu trùng này đã gây tổn thương tại các mô.

2. Dịch tễ

  

Hình 1. Nang giun đũa chó mèo (Toxocara canis ) và chu kỳ của giun.

Về dịch tễ do đặc điểm chó, mèo là những động vật rất gần gũi với người, đặc biệt trẻ em, nên bệnh phân bố khắp thế giới và cả ở Việt Nam. Chưa xác định được tỉ lệ bệnh giun đũa chó, mèo ở Việt Nam, một phần vì các triệu chứng lâm sàng không đặc hiệu, một phần vì việc xét nghiệm phân không áp dụng được trong bệnh này vì giun không phát triển được đến giai đoạn trưởng thành và đẻ trứng trong ruột của người. Những năm gần đây đã có nhiều điều tra về huyết thanh học, chủ yếu với kỹ thuật ELISA nhưng chỉ giới hạn ở một số địa điểm cụ thể và số mẫu chưa nhiều nên các số liệu khó nói lên tình hình nhiễm chung trong cả nước. Một điều tra khảo sát tình hình nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở xã Thạnh Tân, thị xã Tây Ninh cho thấy tỷ lệ huyết thanh dương tính với Toxocara canis là 20,6%. Tuy chưa có số liệu chính xác về tình hình nhiễm bệnh, nhưng cơ hội lây nhiễm trứng giun đũa chó, mèo vào người, đặc biệt ở trẻ em tại Việt Nam là rất cao, dẫn đến tình hình bệnh không phải là thấp do việc nuôi chó, mèo trong nhà là phổ biến. Một khảo sát tình hình nhiễm giun tròn đường tiêu hóa trong 177 con chó tại một số địa phương tỉnh Thanh Hóa cho thấy qua mổ khám tỷ lệ chó nhiễm Toxocara canis chiếm từ 10% – 25% và qua xét nghiệm phân là từ 22,8% – 40%. Ngoài ra một khảo sát trên 90 mẫu rau sống bán tại các siêu thị trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, số mẫu rau nhiễm trứng giun đũa chó, mèo chiếm đến 67,7%.

3. Thể bệnh lâm sàng

Triệu chứng khi nhiễm giun đũa chó, mèo: Ở chó hay mèo nhà, giun trưởng thành sống trong lòng ruột non. Ở người, mắc bệnh khi nuốt phải trứng giun đũa chó, mèo đã hoá phôi. Nhưng các ấu trùng từ trứng nở ra sẽ không phát triển được đến giai đoạn trưởng thành ở trong ruột mà chúng sẽ chu du trong cơ thể người trong vài tháng đến nhiều năm. Các ấu trùng này gây tổn thương tại những nơi mà chúng đến, gây nên bệnh giun đũa chó, mèo ở người.

Mức độ tổn thương của các cơ quan trong cơ thể cùng với các triệu chứng tùy thuộc vào số lượng ấu trùng cũng như nơi mà chúng xâm nhập: gan, phổi, hệ thần kinh trung ương, mắt… Các thể lâm sàng của bệnh giun đũa chó, mèo như sau:

– Thể ấu trùng di chuyển trong nội tạng, chủ yếu gặp ở trẻ < 5 tuổi với các triệu chứng: sốt, gan to và bị hoại tử, lách to, triệu chứng hô hấp giống như hen suyễn, bạch cầu ái toan tăng (tỷ lệ có thể đến 70%), các globulin miễn dịch IgM, IgG và IgE trong máu tăng. Ngoài ra có thể gặp viêm cơ tim, viêm thận, hệ thần kinh trung ương bị thương tổn với các triệu chứng co giật, triệu chứng tâm thần kinh hay bệnh lý ở não.

– Thể ấu trùng di chuyển tới mắt, gặp ở trẻ từ 5 đến 10 tuổi với triệu chứng giảm thị lực một bên mắt, đôi khi bị lác mắt. Mức độ suy giảm thị lực tuỳ thuộc vào vùng bị thương tổn (võng mạc, điểm vàng), có thể dẫn đến mù loà.

   

Hình 2. Ban dị ứng (hình trái). Giun ký sinh dưới da (hình phải).

  

Hình 3. Giun ký sinh trong mắt.

Ngoài hai thể lâm sàng chính nói trên, có thể gặp những thể khác:

– Thể “kín đáo”, được mô tả ở trẻ em với các đặc điểm: hiệu giá kháng thể Toxocara qua kỹ thuật ELISA tăng vừa phải (≥ 1/50), số lượng bạch cầu ái toan bình thường hay tăng nhẹ, đau bụng, nhức đầu, ho.

– Thể “thông thường”, được mô tả ở người lớn với các triệu chứng: mệt mỏi, ngứa, nổi ban, thở khó và đau bụng. Có lẽ thể “kín đáo” và thể “thông thường” chỉ là một, chỉ khác nhau ở đối tượng bị bệnh là trẻ em hay người lớn.

– Thể “thần kinh”, gây bệnh ở hệ thần kinh trung ương (sa sút trí tuệ, viêm não-màng não, viêm tuỷ, viêm mạch máu não, động kinh hay viêm dây thần kinh thị giác) hoặc ở thần kinh ngoại biên (viêm rễ thần kinh, gây tổn thương các dây thần kinh sọ hay thần kinh cơ-xương).

Một nghiên cứu năm 2012 của Trung tâm Khám bệnh chuyên ngành Viện Sốt rét-KST-CT TP. Hồ Chí Minh trên 103 bệnh nhân có test ELISA Toxocara dương tính cho thấy các triệu chứng sau:

TT

Triệu chứng

Tần xuất

Tỉ lệ %

1

ELISA (+)

103

100

2

Ngứa

97

94,2

3

Mề đay

97

94,2

4

Đau đầu

76

73,8

5

Rối loạn tiêu hóa

34

33,0

6

Bạch cầu ái toan tăng

21

20,4

7

Ăn kém

15

5,0

8

Đau bụng

14

4,7

4. Chẩn đoán

– Chẩn đoán bệnh giun đũa chó, mèo gặp nhiều khó khăn vì:

+ Triệu chứng trong các thể lâm sàng của bệnh giun đũa chó, mèo không đặc hiệu.

+ Ấu trùng có thể phân tán rộng trong cơ thể và không phải lúc nào làm sinh thiết cũng phát hiện được ấu trùng,

+ Huyết thanh chẩn đoán ELISA sử dụng kháng nguyên ngoại tiết TES (Toxocara excretory-secretory antigen) có thể dương tính chéo với các trường hợp nhiễm giun, sán khác (giun đũa, giun móc, giun lươn, giun chỉ hệ bạch huyết, sán lá gan lớn, sán dây). Do đó để khẳng định thì phải làm Western-Blot là một kỹ thuật có tính đặc hiệu cao hơn.

+ Ngoài ra nhiều nơi sản xuất kit ELISA với những hiệu giá kháng thể hay mật độ quang (OD) khác nhau về ngưỡng dương tính, nên khó so sánh hay theo dõi diễn tiến bệnh.

+ Sự hiện diện của kháng thể kháng Toxocara cũng không nói lên tình trạng đang mắc hay đã mắc bệnh vì các kháng thể chống Toxocara có thể tồn tại đến hơn 2,8 năm với kỹ thuật ELISA và đến hơn 5 năm với kỹ thuật Western-Blot.

+ Số lượng bạch cầu ái toan có thể bình thường hoặc có tăng nhưng với mức độ rất thay đổi.

(5) Nồng độ IgG và IgM tăng.

(6) Gan to.

Nếu hội đủ 3 tiêu chuẩn trên trở lên thì là mắc bệnh giun đũa chó, mèo.

 - Chẩn đoán theo đề xuất của Pawlowski ZS. (2002) căn cứ vào các thông số sau:

                  (2) Dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng trên từng thể bệnh;

                  (3) Kháng thể anti-Toxocara spp IgG dương tính;

                  (4) Bạch cầu ái toan trong máu ngoại biên tăng;

                   (5) Nồng độIgE toàn phần tăng (bình thường IgE < 130 IU/mL).

5. Điều trị

Về điều trị nhìn chung albendazole được nhiều tác giả khuyến cáo sử dụng do tính an toàn, có sẵn và ít phản ứng bất lợi. Thời gian dùng albendazole cũng rất thay đổi tuỳ theo tác giả.

Các thuốc chống giun sán có thể sử dụng để điều trị hội chứng ấu trùng di chuyển phủ tạng (VLMs). Điều trị có thể dẫn đến các phản ứng quá mẫn nghiêm trọng do ấu trùng chết và các thuốc chống viêm như corticosteroids chỉ định đồng thời. Điều trị bệnh lý ở mắt có thể gồm phẩu thuật, áp lạnh laser và các thuốc giảm tổn thương mắt thêm.

1. Albendazole (ALB), liều dùng 15mg/kg cũng cho thấy có hiệu quả trên ca nhiễm ấu trùng giun đũa chó/ mèo trong 2-3 tuần liên tiếp tùy thuộc thể bệnh.

2. Thiabendazole (TBZ) liều dùng 25mg/kg, uống 2 lần/ngày trong 2, 3, hoặc 5, 7, hoặc 21 ngày liên tiếp hay ngắt quãng (tùy thuộc vào thể bệnh ở da niêm mạc thông thường hay thể ở cơ quan nội tạng).

Đối với thể ấu trùng di chuyển ở mắt (OLM) phải dùng corticoid (0,5-1 mg prednisone/kg/ngày) để chống hiện tượng viêm. Ngoài ra có thể dùng thiabendazole 25 mg/kg × 2 lần/ngày trong 5 ngày (liều tối đa trong ngày 3g), albendazole 800 mg, ngày 2 lần trong 6 ngày, hoặc mebendazole 100-200 mg, ngày 2 lần trong 5 ngày. Nếu võng mạc bị bong thì phải phẫu thuật để can thiệp.

6. Dự phòng

Phòng bệnh: dọn dẹp sạch sẽ nơi chó, mèo nằm. Phân chó, mèo phải được chôn lấp hay bỏ vào túi và cho vào thùng rác. Không cho trẻ chơi đùa nơi có chó, mèo thải phân. Rửa tay với xà phòng sau khi chơi đùa với chó, mèo, sau khi nghịch đất cát và trước khi ăn uống. Định kỳ tẩy giun cho chó, mèo.

Bé trai thủng ruột do nhiễm giun tròn chó mèo không phát hiện kịp thời. https://news.zing.vn/be-trai-thung-ruot-do-nhiem-giun-tron-cho-meo-khong-phat-hien-kip-thoi-post866949.html

Video gắp giun đũa chó 14mm trong mắt bệnh nhân ở Nghệ An. http://soha.vn/kinh-hai-video-lay-con-giun-dai-14mm-ra-khoi-mat-nguoi-20230511174313359.htm

Nghệ An: Kinh hoàng phát hiện giun đũa chó kí sinh trong mắt người. https://baomoi.com/nghe-an-kinh-hoang-phat-hien-giun-dua-cho-ki-sinh-trong-mat-nguoi/c/19345761.epi

Ba người trong một gia đình mắc bệnh không ngờ từ giun đũa chó. http://giadinh.net.vn/song-khoe/3-nguoi-trong-mot-gia-dinh-mac-benh-khong-ngo-tu-giun-dua-cho-20230914183758698.htm

Đau đầu cả tháng do giun đũa chó mèo “chui” vào não. https://dantri.com.vn/suc-khoe/dau-dau-ca-thang-do-giun-dua-cho-meo-chui-vao-nao-1376908317.htm

Người đàn ông bị giun đũa chó mèo làm tổ trong não ở Hải Phòng. http://www.doisongphapluat.com/doi-song/suc-khoe-lam-dep/nguoi-dan-ong-bi-giun-dua-cho-meo-lam-to-trong-nao-o-hai-phong-a182977.html

Kinh hãi vì giun sán “bò” khắp cơ thể bệnh nhân. https://vietnamnet.vn/vn/doi-song/bac-si-kinh-hai-vi-giun-san-bo-khap-co-the-benh-nhan-254120.html

CHIA SẺ BÀI VIẾT

Bệnh Giun Đũa Chó Mèo (Toxocariasis)

Trường hợp bệnh giun đũa chó, mèo ở người được Wilder mô tả lần đầu năm 1950 khi phát hiện ấu trùng của giun tròn trong u hạt võng mạc (retinal granuloma). Sau đó Beaver và cs. (1952) lần đầu tiên dùng từ “ấu trùng di chuyển nội tạng” (visceral larva migrans) để báo cáo một loạt ca bệnh trẻ em có bạch cầu ái toan tăng cao trong máu đi kèm với bệnh nặng và kéo dài ở nhiều cơ quan, và khi làm sinh thiết phát hiện ấu trùng của Toxocara canis hay Toxocara cati[4]. Trong nhiều năm bệnh giun đũa chó, mèo ở người được xem là bệnh ít gặp ở trẻ em, nhưng với những tiến bộ trong huyết thanh chẩn đoán những năm gần đây người ta thấy tỷ lệ người có phản ứng dương tính với kháng nguyên ngoại tiết của Toxocara sp. không phải là thấp, kể cả ở trẻ em lẫn người lớn và một số tác giả còn cho rằng đây là một bệnh giun sán phổ biến nhất ở các nước phát triển [10].

2. Tác nhân gây bệnh

Tác nhân gây bệnh là Toxocara canis hay Toxocara cati, một loài giun tròn thường được gọi là giun đũa của chó, mèo.Các giun này sẽ đẻ trứng,trứng theo phân ra ngoài môi trường và sau 1-2 tuần lễ các trứng này sẽ hoá phôi.Đây là giai đoạn có thể gây bệnh cho người nếu nuốt phải trứng. Trẻ em là đối tượng dễ nhiễm bệnh nhất do thói quen đùa nghịch với đất cát, mà đất cát lại là nơi phát tán trứng giun do đặc tính phóng uế bừa bãi của chó, mèo. Sau khi nuốt trứng vào cơ thể, các ấu trùng giun sẽ được phóng thích, đi xuyên qua thành ruột và theo đường máu di chuyển đến gan, phổi, hệ thần kinh trung ương. Tại đây, các ấu trùng có thể sống sót trong cơ thể người trong nhiều tháng và sau đó bị phản ứng viêm của cơ thể tiêu diệt các ấu trùng di chuyển hoặc khiến chúng ngưng phát triển, nhưng chỉ sau khi các ấu trùng này đã gây tổn thương tại các mô.

Một đoạn ruột non của chó với T. canis trưởng thành. Giun đực có đuôi cong, giun cái có đuôi thẳng

Trứng T. canis chưa hoá phôi

Trứng T. canis đã hoá phôi

3. Dịch tễ

Do đặc điểm chó, mèo là những động vật rất gần gũi với người, nên bệnh phân bố khắp thế giới và nhiều tác giả cho rằng đây là bệnh động vật ký sinh phổ biến nhất ở vùng ôn đới [10,15]. Một số khảo sát trên thế giới cho thấy:

+ Huyết thanh người tại một số nước phương Tây có tỷ lệ dương tính với Toxocara spp. từ 2-5% ở vùng thành thị đến 14,2-37% ở vùng nông thôn. Ở vùng nhiệt đới, tỷ lệ huyết thanh dương tính là 63,2% ở Bali, 86% ở đảo Saint-Lucia, 92,8% ở đảo La Réunion [10].

+ Huyết thanh Toxocara dương tính tại Sri Lanka là 43% ở vùng nông thôn (Iddawela et al., 2003) và 20% ở vùng thành thị (Fernando et al., 2007) [5].

+ Năm 1989, trong 6100 mẫu máu tại Trung tâm Truyền máu La Chaud-de-Fonds (Thụy Sĩ) có 601 (9,9%) trường hợp dương tính với Toxocara spp., và trong 501 mẫu máu trẻ em tại hai bệnh viện La Chaud-de-Fonds và Delémont (Thụy Sĩ) có 18 (3,6%) trường hợp dương tính [7].

+ Trung tâm Kiểm soát và Phòng chống bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã ghi nhận có 68 bệnh nhân mắc mới bệnh giun đũa chó, mèo thể di chuyển ở mắt trong khoảng thời gian tháng 9/2009 đến tháng 9/2010 tại Hoa Kỳ. Trước đó một điều tra cắt ngang tại Hoa Kỳ trong các năm từ 1988 đến 1994 với trên 20000 người lớn hơn 6 tuổi cho thấy tỷ lệ huyết thanh dương tính là 13,9% (Peter J. Hotez, 2009).

Tình hình bệnh tại Việt Nam:

Bệnh giun đũa chó, mèo tại Việt Nam chưa được nghiên cứu nhiều, một phần vì các triệu chứng lâm sàng không đặc hiệu, một phần vì việc xét nghiệm phân không áp dụng được trong bệnh này vì giun không phát triển được đến giai đoạn trưởng thành và đẻ trứng trong ruột của người. Những năm gần đây đã có nhiều điều tra về huyết thanh học, chủ yếu với kỹ thuật ELISA nhưng chỉ giới hạn ở một số địa điểm cụ thể và số mẫu chưa nhiều nên các số liệu khó nói lên tình hình nhiễm chung trong cả nước.

+ Một điều tra khảo sát tình hình nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở xã Thạnh Tân, thị xã Tây Ninh năm 2009 cho thấy tỷ lệ huyết thanh dương tính với Toxocara canis là 20,6%[16].

+ Theo dõi tình hình nhiễm Toxocara canis trong số cán bộ chiến sĩ công an nghi ngờ nhiễm ký sinh trùng đến khám và điều trị tại bệnh viện 30-4 TP. HCM,cho các số liệu sau: năm 2011 huyết thanh dương tính với Toxocara sp. là 40/861 (4,6%) trường hợp, năm 2012 tỷ lệ này là 130/1628 (8%) trường hợp [20].

Tuy chưa có số liệu chính xác về tình hình bệnh, nhưng cơ hội lây nhiễm trứng giun đũa chó, mèo vào người tại Việt Nam là rất cao, dẫn đến tình hình bệnh không phải là thấp doviệc nuôi chó, mèo trong nhà là phổ biến (để giữ nhà, làm thú cảnh, nguồn thực phẩm…). Một khảo sát tình hình nhiễm giun tròn đường tiêu hóa trong177 con chótại một số địa phương tỉnh Thanh Hóa cho thấy qua mổ khám tỷ lệ chó nhiễm Toxocara canis chiếm từ 10% – 25% và qua xét nghiệm phân là từ 22,8% – 40% [18]. Ngoài ra một khảo sát trên 90 mẫu rau sống bán tại các siêu thị trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, số mẫu rau nhiễm trứng giun đũa chó, mèo chiếm đến 67,7% [17].

4. Lâm sàng

Ở ký chủ vĩnh viễn (chó hay mèo nhà), giun trưởng thành sống trong lòng ruột non. Người mắc bệnh khi nuốt phải trứng giun đũa chó, mèo đã hoá phôi. Nhưng các ấu trùng từ trứng nở ra sẽ không phát triển được đến giai đoạn trưởng thành và sẽ chu du trong cơ thể người trong vài tháng đến nhiều năm. Các ấu trùng này sẽ gây tổn thương tại những nơi mà chúng đến, làm nên bệnh giun đũa chó, mèo ở người.

Mức độ tổn thương của cơ thể cùng với các triệu chứng tùy thuộc vào số lượng ấu trùng cũng như cơ quan mà chúng xâm lấn: gan, phổi, hệ thần kinh trung ương, mắt… Các thể lâm sàng của bệnh giun đũa chó, mèo được mô tả như sau [4]:

Thể ấu trùng di chuyển nội tạng (visceral larva migrans – VLM), chủ yếu gặp ở trẻ < 5 tuổi với các triệu chứng:sốt, gan to và bị hoại tử, lách to, triệu chứng hô hấp giống như hen suyễn, bạch cầu ái toan tăng (tỷ lệ có thể đến 70%), các globulin miễn dịch IgM, IgG và IgE trong máu tăng. Ngoài ra có thể gặp viêm cơ tim, viêm thận, hệ thần kinh trung ương bị thương tổn với các triệu chứng co giật, triệu chứng tâm thần kinh hay bệnh lý ở não.

Thể ấu trùng di chuyển ở mắt (ocular larva migrans – OLM), gặp ở trẻ từ 5 đến 10 tuổi với triệu chứng giảm thị lực một bên mắt với đôi khi bị lé mắt. Mức độ suy giảm thị lực tuỳ thuộc vào vùng bị thương tổn (võng mạc, điểm vàng), có thể dẫn đến mù loà.

Ngoài hai thể lâm sàng chính nói trên, hiện nay nhiều tác giả còn mô tả những thể khác, hoặc tách ra từ thể VLM hoặc là những thể riêng biệt với những triệu chứng mơ hồ hơn như [6,11]:

Thể “che đậy” (covert toxocariasis), được mô tả ở trẻ em với các đặc điểm: hiệu giá kháng thể Toxocara qua kỹ thuật ELISA vừa phải (≥ 1/50), số lượng bạch cầu ái toan bình thường hay tăng nhẹ, đau bụng, nhức đầu, ho.

Thể “thông thường” (common toxocariasis), được các tác giả người Pháp mô tả ở người lớn với các triệu chứng: mệt mỏi, ngứa, nổi ban, thở khó và đau bụng. Có lẽ thể “che đậy” và thể “thông thường” chỉ là một, chỉ khác nhau ở đối tượng bị bệnh là trẻ em hay người lớn.

Thể “thần kinh” (neurotoxocarosis), gây bệnh ở hệ thần kinh trung ương (sa sút trí tuệ, viêm não-màng não, viêm tuỷ, viêm mạch máu não, động kinh hay viêm dây thần kinh thị giác) hoặc ở thần kinh ngoại biên (viêm rễ thần kinh, gây tổn thương các dây thần kinh sọ hay thần kinh cơ-xương).

Một nghiên cứu năm 2012 của Trung tâm Khám bệnh chuyên ngành Viện Sốt rét-KST-CT TP. Hồ Chí Minh trên 103 bệnh nhân có test ELISA Toxocara dương tính cho thấy các triệu chứng sau [19]:

5. Chẩn đoán

Chẩn đoán bệnh giun đũa chó, mèo là một việc khó vì [1,4,9,11,15]:

Triệu chứng trong các thể lâm sàng của bệnh giun đũa chó, mèo không đặc hiệu cho bệnh,

Ấu trùng có thể phân tán rộng trong cơ thể và không phải lúc nào làm sinh thiết cũng phát hiện được ấu trùng,

Huyết thanh chẩn đoán ELISA sử dụng kháng nguyên ngoại tiết TES (Toxocara excretory-secretory antigen) có thể dương tính chéo với các trường hợp nhiễm giun, sán khác (giun đũa, giun móc, giun lươn, giun chỉ hệ bạch huyết, sán lá gan lớn, sán dây). Do đó để khẳng định thì phải làm Western-Blot là một kỹ thuật có tính đặc hiệu cao hơn.

Ngoài ra nhiều nơi sản xuất kit ELISA với những hiệu giá kháng thể hay mật độ quang (OD) khác nhau về ngưỡng dương tính, nên khó so sánh hay theo dõi diễn tiến bệnh.

Sự hiện diện của kháng thể chống Toxocara cũng không nói lên tình trạng đang mắc hay đã mắc bệnh vì các kháng thể chống Toxocara có thể tồn tại đến hơn 2,8 năm với kỹ thuật ELISA và đến hơn 5 năm với kỹ thuật Western-Blot.

Số lượng bạch cầu ái toan có thể bình thường hoặc có tăng nhưng với mức độ rất thay đổi.

Nồng độ IgG và IgM tăng,

Gan to

Nếu hội đủ 3 tiêu chuẩn trên trở lên thì là mắc bệnh giun đũa chó, mèo.

Năm 2001, Pawlowski lại đề xuất 5 chỉ thị (markers) cho bệnh giun đũa chó, mèo:

Đặc điểm của bệnh nhân và bệnh sử,

Các dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng,

Chẩn đoán huyết thanh dương tính,

Tăng bạch cầu ái toan,

Nồng độ IgE tăng.

6. Điều trị

Phác đồ điều trị bệnh giun đũa chó, mèo hiện nay chưa thống nhất về thuốc tối ưu, cũng như liều lượng và thời gian điều trị. Nhìn chung albendazole được nhiều tác giả khuyến cáo do tính an toàn, có sẵn và ít phản ứng bất lợi. Thời gian dùng albendazole cũng rất thay đổi tuỳ theo tác giả.

+ S. D. Fernando (2011) điều trị cho trẻ em 4-13 tuổi tại Sri Lanka với albendazole liều 50 mg/kg/ngày chia làm 2 lần/ngày trong 3 ngày, và với DEC 6 mg/kg/ngày chia làm 3 lần/ngày trong 21 ngày. Đến tháng thứ 3 sau điều trị, hiệu giá huyết thanh Toxocara và số lượng bạch cầu ái toan giảm như nhau ở cả 2 phác đồ. Tác giả khuyến nghị dùng albendazole liều như trên để điều trị bệnh giun đũa chó, mèo do có hiệu quả và thời gian dùng thuốc ngắn [5].

+ Theo Magnaval (2001), thiabendazole liều 25-50 mg/kg/ngày trong 3-7 ngày có hiệu quả trong 50-53% trường hợp bệnh, mebendazole liều 20-25 mg/kg/ngày trong 21 ngày có hiệu quả trong 70% trường hợp bệnh và albendazole liều 10 mg/kg/ngày trong 5 ngày có hiệu quả trong 47% trường hợp bệnh. Tuy diethylcarbamazine (DEC) liều 3-4 mg/kg/ngày trong 21 ngày (khởi đầu với liều 25 mg/ngày và tăng dần) có hiệu quả đến 70% trường hợp bệnh nhưng có đến 28% bệnh nhân bị phản ứng bất lợi và 10% có phản ứng ngứa, nổi mề đay. Ivermectin không được khuyên dùng vì hiệu quả kém. Đồng thời tác giả cũng khuyến cáo rằng những bệnh nhân nào không có triệu chứng lâm sàng nhưng có tăng bạch cầu ái toan kéo dài cũng như những bệnh nhân nào có thể lâm sàng “che đậy” (covert toxocariasis) mà không có tăng bạch cầu ái toan thì không cần phải được điều trị vì bệnh sẽ tự khỏi [10].

+ Đối với thể ấu trùng di chuyển ở mắt (OLM) phải dùng corticoid (0,5-1 mg prednisone/kg/ngày) để chống hiện tượng viêm. Ngoài ra có thể dùng thiabendazole 25 mg/kg x 2 lần/ngày trong 5 ngày (liều tối đa trong ngày 3 g), albendazole 800 mg, ngày 2 lần trong 6 ngày, hoặc mebendazole 100-200 mg, ngày 2 lần trong 5 ngày. Nếu võng mạc bị bong thì phải phẫu thuật để can thiệp [3].

+ Despommier (2003) khuyến cáo sử dụng albendazole liều 400 mg, ngày 2 lần và dùng trong 5 ngày để điều trị bệnh giun đũa chó, mèo [4].

+ Carvalho (2011), cũng như Turrientes (2011) đề nghị dùng albendazole 15 mg/kg/ngày trong 5 ngày để điều trị, ngoại trừ thể bệnh không có triệu chứng thì không cần phải điều trị [1,14].

+ Magnaval (2006) đề xuất các phác đồ sau [9]:

+ The Medical Letter on Drugs and Therapeutics[12], Trung tâm Kiểm soát và Phòng chống bệnh Hoa Kỳ (CDC, 2010) [2] cũng như Kappagoda (2011) [8] khuyến cáo sử dụng albendazole và mebendazole để điều trị bệnh giun đũa chó, mèo thể ấu trùng di chuyển nội tạng với các liều lượng như sau:

Albendazole 400 mg x 2 lần/ngày, uống trong 5 ngày

Mebendazole 100-200 mg x 2 lần/ngày, uống trong 5 ngày

Đồng thời có thể kết hợp với corticoid để chống hiện tượng viêm.

Albendazole: cơ chế tác dụng và các phản ứng bất lợi

Albendazole, thuộc nhóm benzimidazole, ức chế sự polyme-hoá tubulin của ký sinh trùng để tạo ra các microtubule, dẫn đến ký sinh trùng bị rối loạn hấp thu glucose. Khi đó ký sinh trùng sẽ không tạo ra được năng lượng, sẽ bị bất động và chết. Ngoài tác dụng lên ký sinh trùng trưởng thành, thuốc còn có tác dụng trên trứng và ấu trùng.

7. Phòng bệnh

Hàng tuần dọn dẹp sạch sẽ nơi chó, mèo nằm.

Phân chó, mèo phải được chôn lấp hay bỏ vào túi và vứt bỏ vào thùng rác.

Không cho trẻ chơi đùa nơi có chó, mèo thải phân.

Rửa tay với xà phòng sau khi chơi đùa với chó, mèo, sau khi nghịch đất cát và trước khi ăn uống.

Định kỳ tẩy giun cho chó, mèo.

Cập nhật thông tin chi tiết về Bệnh Giun Đũa Chó, Mèo Và Những Điều Cần Biết trên website Dhrhm.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!